TƯ LIỆU MỚI VỀ DANH NHÂN TÔ THẾ HUY (1666 – 17??)


Cắt băng khánh thành Nhà thờ Tiến sĩ Tô Thế Huy tại thôn Bình Trù, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, 1/2015 (Ảnh TL). 

Trong các văn bản chính thức hiện nay, sau Đức Thành Hoàng Tô Lịch và Lý triều Thái úy Tô Hiến Thành, Tiến sỹ Tô Thế Huy được khẳng định là một nhân vật lịch sử tiêu biểu của Họ Tô Việt Nam. Vì thế, sưu tầm, bổ sung và phổ biến rộng rãi thông tin của danh nhân Tô Thế Huy là việc làm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ. 

Từ các văn bản lịch sử được lưu truyền, chúng ta được biết danh nhân Tô Thế Huy (1666 -?) người xã Bình Đăng (cùng gọi là Bằng Đắng), huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái, tỉnh Sơn Tây, nay là thôn Bình Trù, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

Năm 32 tuổi, Tô Thế Huy đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa (1697) đời vua Lê Hy Tông; giữ các chức Hữu Thị lang, Phó sứ đoàn sang triều Thanh tuế cống, Tả Thị lang bộ Lễ, Tả Thị lang bộ Công tước Cảo Quận công.

Tháng 12 (năm 1725), ông bị truất xuống chức Hữu Thị lang bởi vì có nhiều viên quan làm việc trưng thu tiền thuế đã tham nhũng, ẩn lậu, Tô Thế Huy lấy tư cách là Công bộ Tả Thị lang làm công việc phúc thẩm, lại giảm tội cho chúng (nguyên văn chép là "Thất xuất", nghĩa là kết án nhẹ kẻ phạm tội nặng). Triều thần xử lại bản án tha tội bọn tham nhũng, còn Tô Thế Huy thì bị giáng chức vì xử không đúng về theo phép nước.

Sau đó, ông lại được thăng Tả Thị lang bộ Lễ, vào hầu tòa Kinh Diên. Tháng Năm năm Nhâm Tí (1732), Uy Vương Trịnh Giang cùng với một số viên đại thần ngấm ngầm bàn kế mưu phản, định phế vua Lê Duy Phường để lập vua Lê Thuần Tông. Khi ấy, Tô Thế Huy đang làm việc ở tòa Kinh Diên, bị coi là bầy tôi giảng dụ (hầu giảng cho nhà vua) mà chỉ dựa dẫm, không biết giúp đỡ vua về mặt đạo đức, nên biếm chức ông cho làm Thừa chính sứ ở Yên Quảng.

Tô Thế Huy là người giỏi về khoa chiêm tinh, thường dâng sách âm dương cho vua Duy Phường, vì vậy Trịnh Giang và một số triều thần muốn truất vua Duy Phường thì phải tìm cách loại bỏ Tô Thế Huy.

Cuối đời, ông về ở quê nhà và tiếp tục công việc tàng thư mà ông có dịp lưu trữ từ khi làm quan ở bộ Lễ. Ông xây ở sau vườn nhà một ngôi nhà gỗ 3 gian lợp ngói, gọi là vân đài để chứa sách. Trong số đó, hầu hết là cất giữ thần phả của các làng xã ở miền đồng bằng và trung du Bắc bộ. Ông mất ngày 24 tháng Tư (chưa rõ năm) được truy tặng Công bộ Thượng thư.

Chúng tôi khi tham khảo một số sách sử như Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (Quốc sử quán Triều Nguyễn), Lịch triều tạp kỷ (Ngô Cao Lãng), Các nhà khoa bảng Việt Nam (chủ biên Ngô Đức Thọ, biên soạn Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Hữu Mùi )… đã may mắn sưu tầm những thông tin mới sau đây:

1. Theo Lịch triều tạp kỷ (Ngô Cao Lãng) thì vào năm Đinh Sửu, Chính Hòa thứ 18 (1697), tháng 12 thi đình. Cho bọn Nguyễn Trà, Nguyễn Quyền hai người đỗ đệ nhị giáp, tiến sỹ xuất thân (hoàng giáp). Bọn Phạm Quang Huân, Tô Thế Huy… và Bùi Đăng Đạt, tám người đều đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân (…Tô Thế Huy, người xã Bình Đăng, huyện Bạch Hạc, 32 tuổi, đỗ….)

Như vậy trong khoa thi năm Đinh Sửu (1697) vua Lê chỉ lấy đỗ 10 người, và dù chỉ đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân, nhưng Tô Thế Huy đã lọt vào tốp 4 xuất sắc nhất trong số hàng ngàn sỹ tử cả nước dự thi.  

Năm Canh Tý, tức năm Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720), tháng 6, (Triều đình ) ban ơn cho các quan văn võ… Tô Thế Huy và Phó đô ngự sử Nguyễn Huy Nhuận đều được ban tước hầu. Cho Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Công Cơ và Lê Anh Tuấn đều làm Phủ liêu tham tụng; Nguyễn Công Huân, Phạm Khiêm Ích và Tô Thế Huy đều làm bồi tụng.

Chức quan Bồi tụng là chức Phó Tể tướng thay cho tên gọi Tham tri Chính sự bắt đầu từ thời Trịnh Tùng cho đến thời Trịnh Tông. Năm 1601, Trịnh Tùng đặt thêm chức Bồi tụng đảm đương trọng trách trong phủ Chúa dưới Tham tụng, với mục đích thâu quyền lực về Phủ chúa và những chức vụ của cung vua chỉ mang tính hư hàm không có thực quyền. Quyền lực của Tham tụng và Bồi tụng rất lớn và được gọi là quan Phủ liêu.

Như vậy có thể nhận định vào thời gian 1697-1729 khi triều đình vua Lê chúa Trịnh được các nhà sử học đánh giá là thời thịnh trị với vua giỏi, tôi hiền (vua Lê Dụ tông, chúa Trịnh Cương) thì các vị quan có tài năng, tâm huyết, trong đó có Tô Thế Huy được trọng dụng và thi thố tài năng của mình ở mức cao nhất.

Sĩ phu đầu thời Nguyễn là Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí đã khen ngợi khả năng trị nước của Trịnh Cương là :

"Trong khi chúa giữ chính, chăm chỉ lo toan trị nước, cùng với các tể tướng ngày đêm trù tính. Phàm việc binh, dân, tiền của, thuế khóa đặt ra rõ ràng đầy đủ."

Cũng trong sách này, Phan Huy Chú viết về các thành tựu của thời vua Lê

Dụ Tông, thời mà Trịnh Cương là người thực sự cai quản việc nước:

"Bấy giờ [vua] nối nghiệp thái bình, không biết việc đao binh, trong nước vô sự. Triều đình đặt nhiều việc pháp độ, kỷ cương rất hẳn hoi đầy đủ, các phương xa đến cống hiến và Trung Quốc trả lại đất đai. Thực là đời rất thịnh."

Sau khi chúa Trịnh Cương mất (1729), con trưởng là Trịnh Giang lên thay. Giang nổi tiếng là ăn chơi sa đọa, đam mê xây dựng chùa chiền, nhà cửa, nghe lời xu nịnh của hoạn quan, chuyên quyền nên các bậc quan chức cũ của thời chúa Trịnh Cương như Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Công Cơ và Lê Anh Tuấn đều bị ghét bỏ. Thậm chi hai quan Tham tụng Nguyễn Công Hãng và Lê Anh Tuấncòn bị biếm chức, bắt làm quan nơi xa và đều bị giết trên đường đi nhậm chức. 

2. Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục

Năm Nhâm tý (1732), tháng 5. Biếm chức Tô Thế Huy Tả Thị lang Bộ Lễ làm Thừa chính sứ ở Yên Quảng. Trịnh Giang cùng các đại thần ngầm định bàn bỏ vua này lập vua khác. Lúc ấy, Tô Thế Huy giữ việc ở điện Kinh Diên, họ bèn vu cho Thế Huy là bầy tôi giảng dụ (hầu giảng cho nhà vua) mà chỉ dựa dẫm, phụ họa không biết giúp đỡ vua về mặt đạo đức, nên biếm chức Thế Huy.

 Sau khi bị Trịnh Giang hãm hại, ông đã chọn cho mình một công việc mới có ích cho đất nước, cho nhân dân là sưu tầm, bảo tồn những sắc phong thần (thành hoàng) của các triều đại trước. 

Đạo sắc được phong năm Tự Đức thứ 6 (1853) cách đây khoảng 168 năm, viết bằng chữ Hán thể khải thư trên giấy sắc, họa tiết vẽ tứ linh (long, lân quy, phượng), được đóng dấu

“Sắc mệnh chi bảo” của triều đình nhà Nguyễn ( Ảnh : sưu tầm trên mạng).

Những tư liệu chính thức còn được lưu giữ, các thần tích sao lại theo chính bản của bộ Lễ do Nguyễn Bính, giữ chức Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ biên soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được Nguyễn Hiền, Quản giám bách thần tri điện, Hùng Lĩnh thiếu khanh sao chép chủ yếu vào các năm niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740).

Theo phát hiện mới nhất (2018) của TS Nguyễn Hữu Mùi ( Viện Hán Nôm) thì người sao chép lại các bản thần tích của tác giả Nguyễn Bính là Nguyễn Hiền, và Nguyễn Hiền lại chính là nhà khoa bảng Tô Thế Huy, người xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Cao Bình, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Vào khoảng niên hiệu Vĩnh Hựu, khi giữ chức Quản giám bách thần, ông lấy bút danh Nguyễn Hiền, chuyên sao lục và hoàn thiện tiếp các bản ngọc phả của Nguyễn Bính".

Trong khi năm sinh và ngày mất của Tô Thế Huy, các tư liệu lịch sử liên quan đều ghi thống nhất là 1666 và ngày 24 tháng 4 (Âm lịch) thì năm mất không được ghi lại. Tuy nhiên, dựa vào thông tin từ cuốn Ngọc phả quốc lục, cuốn sách ghi sự tích thần Hùng Linh công còn lưu lại tại Đền IA (tức Đền Y Sơn) thuộc xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang do Hàn lâm viện Đông các Đại Học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn vào niên hiệu Hồng Phúc, triều đại Sùng Khang năm Nhâm Thân (1572) và được Hồng Lĩnh thiếu khanh thuộc Quản giám bách thần tri điện là Nguyễn Hiền căn cứ vào bản của triều trước chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ ba, triều đại Lê Ý Tông (Duy Thận) năm Đinh Tỵ (1737) thì có thể khẳng định Tô Thế Huy mất sau năm 1737, nghĩa là ông thọ trên 71 tuổi tính theo dương lịch.

Với hơn 35 năm làm quan, trải nhiều thăng trầm nhưng với chức trách của một vị quan trong nội điện, Tô Thế Huy luôn thể hiện là một vị trung chính với triều đình, vì lợi ích chung của dân, của đất nước. Tuy nhiên, ông cũng bị một số quan nịnh thần ghen ghét vu oan khiến cho ông có lúc bị biếm chức làm quan Thừa chính quản xứ Yên Quảng, tức Quảng Ninh ngày nay.

Cuối đời, ông được về trí sĩ tại quê nhà và xây dựng Vân Đài giống như thư viện để lưu trữ các bản ngọc phả ở các đình, đền, miếu ở vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ. Nhưng sau đó nhà Vân Đài của Tiến sĩ Tô Thế Huy bị Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương (nửa sau thế kỷ 18) cho quân dỡ về xây dựng Quán Tiên. Con cháu họ Tô phải mang Thần tích lên gửi tại Đền Hùng.  

Tô Thế Huy mất ngày 24 tháng 4 âm lịch khi đã ngoài 70 tuổi và được phong tước Công. Con cháu ông về sau đều hiển đạt, có người làm quan tới chức Chánh hiến sứ, Phó Hiến sứ. Nhớ ơn vị tổ khai khoa, con cháu dòng họ Tô hiện nay vẫn luôn phát huy tinh thần hiếu học. Họ Tô ở Cao Đại vẫn luôn dẫn đầu trong công tác khuyến học, khuyến tài của địa phương.

Ông Tô Quang Cương, Trưởng Ban Liên lạc họ Tô Bình Trù cho biết: “Họ Tô tại Bình Trù tới nay đã trải gần 400 năm. Cụ Tổ khai khoa còn rất nhiều di chỉ, sắc phong và các câu đối của các triều đại ban tặng. Chúng tôi là hậu duệ luôn tự hào và phát huy truyền thống vẻ vang của dòng họ cả về truyền thống nhân ái, tương trợ của cụ tổ và truyền thống khoa bảng. Hiện nay họ Tô ở Bình Trù có hơn 600 người, đều bảo ban nhau cố gắng phấn đấu, sự hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác, góp vào truyền thống văn hoá khoa bảng của quê hương...”.

Ngày nay, tại đền thờ ông tại làng Bình Trù còn lưu giữ được nhiều sắc phong, câu đối giàu ý nghĩa và giá trị lịch sử. Cùng với những đóng góp cho đất nước, Tô Thế Huy còn để lại một số tác phẩm thơ văn có giá trị như bài ký Phụng tự La công sinh từ bi ký (bia sinh từ hệ La ở xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang). Một bài tựa viết cho sách Quần hiền phú tập vào năm Bảo Thái 10 (1728). Bài trướng mừng Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân thi đỗ có tiêu đề Cổ Đô thượng thư quan đăng Tiến sĩ hạ tập, chép trong sách Bách Liêu thi văn tập.

Trong cuộc đời làm quan, tuy sử sách không ghi chép nhiều về công trạng của Tô Thế Huy, nhưng người dân Bình Trù thì luôn ghi nhớ công ơn của vị Tiến sĩ khai khoa này. Sau khi mất, Tô Thế Huy được dân làng Bình Đắng thờ tự tại khuôn viên của gia đình ông. Tuy nhiên, thời kháng chiến chống thực dân  Pháp ngôi từ đường bị tàn phá không còn nữa. Năm 2015, con cháu  dòng họ Tô đã cùng nhau dựng lại ngôi đền tại thôn Bình Trù, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

Hàng năm, vào ngày 24 tháng 4 âm lịch, tại đền thờ Tô Thế Huy diễn ra lễ giỗ tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, cũng từ đó ôn lại và động viên, khuyến khích con em phát huy truyền thống hiếu học của quê hương.

Hiện nay, tại các Thư Viện Viện Thông tin Khoa học và Nhân Văn, Viện  Hán Nôm đang lưu giữ hàng chục ngàn sắc phong của nhiều trều đại phong kiến Việt Nam góp phần sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử. Chúng ta vô cùng tự hào là dòng họ Tô có Tiến sỹ Tô Thế Huy - Nguyễn Hiền, người đã có công lao đáng kể trong việc sao chép nguồn và lưu trữ nhiều sắc phong, nguồn tư liệu văn hóa - lịch sử quý báu của dân tộc Việt Nam  

 

                                      Tô Lê Cường (Sưu tầm và biên soạn)