Gặp cán bộ "trụ" sau Hiệp định Giơ-ne-vơ

Tác giả và ông Tô Tấn Tài (bên phải)

Nhờ anh bạn thân làm tài xế xe ôm, phải mất hơn tiếng đồng hồ chạy loằng ngoằng qua mấy con hẻm nhỏ tại thôn 1, xã Hòa Xuân (cách trung tâm TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) khoảng 12 cây số, chúng tôi mới tìm được nhà ông Tô Tấn Tài. Từ ngoài cổng, ông niềm nở bắt tay chúng tôi hệt như đón người thân lâu ngày gặp lại.

Vừa uống nước, trò chuyện, chúng tôi vừa quan sát căn phòng khách nhà ông, thấy vật dụng bày biện hết sức đơn giản, chẳng có gì quý giá ngoài một tủ sách lớn và nhiều Huân - Huy chương, Bằng khen... do Đảng và Nhà nước tặng thưởng cho ông trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng, được treo trang trọng trên tường. Từng giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, vậy mà lúc nghỉ hưu, ông sống rất giản dị trong căn nhà đơn sơ giữa khu vườn nho nhỏ ven thành phố.

Tuy tuổi đã cao, trí nhớ giảm nhiều nhưng khi biết mục đích của chúng tôi muốn nhờ ông chỉnh lý, bổ sung và cung cấp thêm những tư liệu phục vụ công tác nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng bộ xã Đất Bằng giai đoạn 1945-2015, ánh mắt ông ánh lên niềm vui với nụ cười rạng rỡ. Ông cho biết, cơ bản nhất trí với những sự kiện trong dự thảo mà chúng tôi gửi trước đó, còn những gì cần trao đổi trực tiếp thì: “Nhớ đâu, mình nói đó”. Cách nói chuyện của ông rất gần gũi, thân mật. Ông xưng “mình” và gọi chúng tôi bằng “cậu, các cậu”. Câu chuyện ông kể thật tự nhiên...

Tham gia cách mạng từ thuở thiếu niên

Ông tên là Tô Tấn Tài, nhưng hầu như mọi người xưa nay đều quen gọi là Ama Hoanh, sinh năm 1932, quê quán tại xã Hòa Kiến, TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Tháng 8-1945, tuy mới 13 tuổi song ông đã tham gia đoàn học sinh của huyện ủng hộ cuộc Tổng khởi nghĩa, xuống đường giành chính quyền về tay nhân dân. Qua vài công việc như trinh sát, liên lạc, du kích xã, ông được cử đi học, làm cán bộ phụ trách thanh thiếu nhi ở quê nhà. Tháng 9-1949, ông được Đảng phân công lên hoạt động tại huyện Cheo Reo (đóng tại căn cứ Đất Bằng), phụ trách công tác Văn phòng Ban Cán sự Đảng bộ huyện, do đồng chí Nguyễn Địch (ông gọi bằng cậu ruột) làm Bí thư. Sau đó, ông được phân công xuống Đội công tác phụ trách xã Đất Bằng. Lúc này, xã Đất Bằng có đại đội độc lập 29 và một đội vũ trang tuyên truyền thuộc Trung đoàn 84 đóng. Lực lượng này cùng với cán bộ dân chính, lực lượng du kích của huyện đẩy mạnh xây dựng cơ sở chính quyền cách mạng. Trên địa bàn xã Đất Bằng xuất hiện nhiều cán bộ, chiến sĩ tiêu biểu như Ơi Lưng (Ma Djet), Ama Tyh (tức Kpă Ylang, là chỉ huy lực lượng du kích của xã, được tuyên dương Chiến sĩ thi đua toàn Liên khu 5 năm 1950), Ma Đăm, Ma Diêk, Y Bua, Ma Hân, Ơi Yem… đều là người dân tộc Jrai tại chỗ. Số cán bộ này được tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và lực lượng vũ trang bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng.

Chi bộ xã Đất Bằng được thành lập vào tháng 9-1949 gồm 10 đảng viên do Ama Đăm (Ơi Nhen) làm Bí thư. Chủ trương của chi bộ xã đề ra trước mắt là: Đẩy mạnh phát triển, củng cố cơ sở chính trị, tích cực phát triển du kích buôn, xã; phát triển bố phòng; củng cố bàn đạp dừng chân cho xã và huyện; giúp đỡ nhân dân sản xuất kịp vụ rẫy; cung cấp đủ nông cụ cho nhân dân phát rẫy, làm cỏ; tiếp tục kèm cặp, bồi dưỡng thêm nhận thức cho các đối tượng cảm tình để kết nạp thêm đảng viên... Ông Tô Tấn Tài nhận định: Việc thành lập chi bộ xã với hầu hết đảng viên là người Jrai thể hiện sự đánh giá đúng vai trò của cán bộ địa phương, tình yêu thương đoàn kết giữa cán bộ người Kinh và cán bộ người dân tộc thiểu số. Chi bộ đã phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo, huy động sức mạnh nhân dân trong xã, tích cực tham gia cuộc kháng chiến trên mọi mặt công tác, ý thức tự giác ngày một cao. Bằng những hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong 2 năm (1948-1949), vùng căn cứ Đất Bằng được xây dựng, củng cố, trở thành bàn đạp vững chắc cho phong trào kháng chiến của huyện và tỉnh Đắk Lắk bấy giờ.

Trong câu chuyện với chúng tôi, ông Tô Tấn Tài nhắc đến những sự kiện lớn đã được sử sách của tỉnh, của huyện ghi lại, trong đó có rất nhiều công lao của cán bộ, nhân dân xã Đất Bằng như: Trận tấn công đồn Ma Phu-mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ-đêm 15-7-1950, lực lượng du kích của huyện và xã Đất Bằng phối hợp với Tiểu đoàn 365, của Trung đoàn 803 đã tiêu diệt và làm bị thương 30 tên địch, bắn sập hết nhà cửa, phá hủy 1 súng cối 81 mm và làm tê liệt hệ thống hỏa lực của địch. Tuy không tiêu diệt được hoàn toàn đồn Ma Phu, nhưng trận đánh này đã khích lệ tinh thần cán bộ, chiến sĩ, nhân dân vùng Đất Bằng, Mlah (đồn Mlah-trung tâm huyện Krông Pa ngày nay), làm cho địch hoang mang, lo sợ. Sau đó, Huyện ủy mở hội nghị phát động quân, dân, chính, Đảng hạ quyết tâm chống Pháp đến cùng, diệt bọn tề gian ác ngoan cố. Đồng bào được du kích hỗ trợ đồng loạt nổi dậy tổng phá hoại đường giao thông từ đồn Mlah đi Ma Phu, dùng súng và lựu đạn đánh vào kho gạo, bốt gác của địch, diệt 4 lính Pháp và 20 lính khác, bắt 2 tên, làm bị thương 10 tên. Đồng chí Nay Séo-Xã đội trưởng đã chiến đấu và hy sinh anh dũng. Năm 1951, xã Đất Bằng được tuyên dương xã chiến đấu xuất sắc của tỉnh Đắk Lắk.

Bám trụ xây dựng cơ sở

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Đất Bằng, Mlah vô cùng phấn khởi. Nhân lúc binh lính địch tại đồn Mlah rã rời tuyệt vọng, đồng chí Nguyễn Khuê (Ama HLơ) chỉ đạo tổ chức đồng bào các buôn xung quanh, nhất là chị em phụ nữ bồng bế trẻ con kéo vào đồn Mlah kêu gọi, thuyết phục, giành giật... đưa con em mình bỏ hàng ngũ địch trở về với cha mẹ, với đồng bào để được khoan hồng. Hòa cùng không khí chung, xã Đất Bằng tổ chức mít tinh, hội họp, liên hoan mừng thắng lợi Hiệp định, mừng buôn làng được giải phóng, đất nước được hòa bình sau 9 năm trường kỳ kháng chiến gian khổ. Tháng 8-1954, cán bộ và nhân dân xã Đất Bằng vinh dự được đại diện cho nhân dân vùng Mlah tập trung về Tân Vinh (Phú Yên) tham gia lễ mừng chiến thắng và quán triệt tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng, đồng thời tiễn đưa lực lượng vũ trang và những người con đi tập kết.

Ông Tô Tấn Tài cho biết thêm: Sau năm 1954, thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, đại bộ phận cán bộ quân đội đã tập kết ra Bắc, chỉ bố trí ở lại một lực lượng rất mỏng, không trang bị vũ khí, nhiệm vụ chủ yếu là bám dân xây dựng cơ sở với phương thức hoạt động mới, chuẩn bị thi hành hiệp thương tổng tuyển cử. Ông là một trong số các đồng chí được Đảng phân công ở lại bám trụ, xây dựng cơ sở, phụ trách xã Đất Bằng, huyện H2. Xã (còn gọi là tổng) Đất Bằng cùng các tổng giáp ranh: Phước Tân, Cà Lúi... (Phú Yên) lúc này đã do Mỹ-ngụy kiểm soát. Chúng tăng cường thành lập bộ máy cai quản gồm chánh tổng, chủ làng, tuy nhiên có một số chánh tổng là người của ta cài vào như Ama Tiêu-Chánh tổng Đất Bằng. Thời gian này, ông Tô Tấn Tài phải cải trang: Cởi trần, phơi nắng cho da đen nhẻm, đóng khố, miệng ngậm tẩu thuốc... cho thật giống người Jrai. Ban ngày, ông ở ngoài rừng, đêm vào buôn hoạt động, có lúc phải cột võng ngủ ở khu nhà mả, nơi địch ít chú ý.

Kể đến đây, ông gỡ kính, dụi mắt: Một trong những kỷ niệm tôi không bao giờ quên là năm 1957, địch tăng cường “tố cộng” gây khó khăn cho phong trào. Nhưng nhờ sự bảo vệ của nhân dân và sự bình tĩnh của cán bộ ta nên vẫn bảo toàn được cán bộ, cơ sở. Tôi cải trang như người địa phương, cùng vợ chồng một gia đình đồng bào là Ơi Nhen (buôn Ơi Khảm) chuyển máy chữ và tài liệu của cơ quan tỉnh Phú Yên gửi cất giấu từ địa điểm hang đá tại buôn Ơi Khảm sang Ơi Đak, Ơi H'Djik giữa ban ngày. Trên đường gặp đoàn công vụ của địch, nhưng nhờ sự bình tĩnh đối đáp bằng tiếng Jrai của tôi nên địch không nghi ngờ, vì vậy chuyến đi được an toàn. Còn sự kiện năm 1957, đồng bào buôn Ơi Đak, Ơi HDjik đánh 2 tên mật vụ từ Phú Yên lên truy bắt cán bộ ta ở suối Mlah, tôi đang trên đường ra Bắc, sau mới nghe kể lại.

Ông cho biết thêm, nhiều cơ sở là phụ nữ rất tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia các phong trào ở địa phương. Điển hình như: Amí Nhung, Amí Tha, Amí Lưu (vợ đồng chí Trần Kiệt)... ở Đất Bằng đã tích cực vận động chị em trong xã, buôn tham gia vót chông rào làng chống địch, bảo vệ buôn làng, căn cứ...

Tháng 7-1957, ông được phân công hộ tống đưa đoàn cán bộ huyện ra miền Bắc. Đến tháng 5-1959, ông trở vào hoạt động ở vùng Chư Dlêiya. Ông xa xã Đất Bằng từ đó.

Ông rất vui khi biết xã Đất Bằng ngày nay nhờ sự quan tâm của Đảng, chính quyền các cấp nên đã đổi thay từng ngày, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; cơ sở hạ tầng như điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học... đã đến tận buôn làng xa nhất; an ninh chính trị luôn được giữ vững, ổn định và hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Ông động viên chúng tôi cố gắng ghi lại chặng đường lịch sử đấu tranh gian khổ nhưng rất đỗi tự hào của cán bộ, nhân dân xã Đất Bằng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như thời kỳ xây dựng, đổi mới để làm bài học giáo dục chính trị tư tưởng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

                                                          Trần Quang Lực (Báo Gia Lai)