Trao đổi thêm về nguồn gốc cộng đồng người Việt ở vùng Tam Đảo, Quảng Tây, Trung Quốc

Về nguồn gốc cộng đồng người Việt ở vùng Tam Đảo, có hai giả thuyết:

Giả thuyết thứ nhấtlà vào đầu thế kỷ 16, một số ngư dân Việt Nam ở Đồ Sơn, thuộc 12 dòng họ: Tô, Nguyễn, Đỗ, Hoàng, Vũ, Bùi, Cao, Ngô, La, Cung, Khổng, Lương đi đánh cá trên biển, gặp bão trôi dạt đến các hoang đảo thuộc tỉnh Quảng Đông , Trung Quốc và định cư lại đó, lập thành ba thôn Vạn Vĩ, Vu Đầu, Sơn Tâm vốn là ba hòn đảo nên gọi tên chung là Tam Đảo. Hiện nay còn câu ca:” Quê tôi là ở Đồ Sơn- Theo đàn cá sú( cá song ) mới lên đầu đồi”. Giả thuyết này không có sức thuyết phục vì:

-Chỉ là lời truyền miệng, không có tư liệu lịch sử chứng minh.

-Nếu đi đánh cá gặp bão trôi dạt đến thì chỉ là đàn ông, khoảng vài ba chục người. Nhưng ở đây là hàng trăm người, gồm cả đàn ông và đàn bà ( phụ nữ ở đây đều là người Việt ).

-Người Việt ở đây, nhất là lớp người cao tuổi, hầu như vẫn giữ trang phục, ngôn ngữ, văn hóa Việt. Nếu bị trôi dạt đến đó vào đầu thế kỷ 16, đến nay đã 500 năm thì chắc đã bị đồng hóa hoàn toàn, không còn giữ được chút gì bản sắc Việt.

Giả thuyết thứ hailà vùng đất này trước đây là đất Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Yên. Theo bản đồ địa giới Bắc Kỳ năm 1879 thì biên giới giữa tỉnh Quảng Yên   (Việt Nam ) và tỉnh Quảng Đông ( Trung Quốc ) là sông Dương Hà còn gọi là An Nam giang nay là Phòng Thành giang chảy ra cảng Phòng Thành. Vào năm 1511, hàng trăm gia đình thuộc 12 chi họ ở tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, trấn Hải Dương đã dùng bè mảng di cư đến đây là vùng cực Đông Bắc của nước Đại Việt, khai hoang làm nông nghiệp và đi biển đánh cá.

Năm 1885, sau khi hoàn toàn xâm chiếm nước Việt Nam, thực dân Pháp đã cùng nhà Thanh ( Trung Quốc ) ký Hòa ước Thiên Tân. Năm 1887, hai bên lại ký Công ước Pháp-Thanh 1887 còn gọi là Công ước Constans 1887 để thi hành diều khoản 3 của Hòa ước Thiên Tân 1885. Nội dung Công ước này nhằm phân chia đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc. Trong quá trinh hai bên đàm phán để phân định đường biên giới, đại diện nhà Thanh là Lý Hồng Chương đã nói với Đô dốc Rieunier: “ Nước Pháp đã đạt được nhiều quyền lợi khi chiếm được Bắc Kỳ, một nước chư hầu của Trung Hoa từ 600 năm nay; việc này là nhờ trung gian của tôi. Nó đã gây cho  tôi nhiều phiền phức, tôi nghĩ rằng một sự đền bồi dưới dạng nhượng một vài vùng đất nhỏ trên vùng biên giới là cần thiết “.

Để tạo thuận lợi cho việc Trung Quốc công nhận  quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp đã đồng ý cắt 750 km2 đất thuộc tổng Tụ Long, tỉnh Hà Giang cho tỉnh Vân Nam và cắt gần 10 xã thuộc tổng Kiền Duyên và tổng Bát Tràng, tỉnh Quảng Yên cho tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Biên giới Bắc Kỳ với tỉnh Quảng Đông đã tịnh tiến xuống phía Nam , lấy sông Ka Long làm địa giới. Đất 10 xã Việt Nam trở thành đất Trung Quốc và dân 10 xã trong đó Họ Tô là đông nhất trở thành cư dân Trung Quốc!

Giả thuyết này hoàn toàn hợp lý vì :

-Được chứng minh bằng tư liệu lịch sử là Công ước Constans 1887.

-Mới thành dân Trung Quốc 130 năm nay nên người dân vùng Tam Đảo vẫn giữ được trang phục, ngôn ngữ và văn hóa Việt.

- Người dân vùng Tam Đảo có mối quan hệ láng giềng mật thiết với cư dân vùng Trà Cổ, cũng là người gốc Đồ Sơn. Có câu ca ; Dân Trà Cổ - Tổ Đồ Sơn và Trà Cổ là tên ghép hai chữ đầu của hai địa danh Trà Phương, Cổ Trai trước thuộc tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, trấn Hải Dương, nay thuộc huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.

Nhưng cả 12 chi họ từ Đồ Sơn di cư lên vùng cực Đông Bắc của Tổ quốc cách đây hơn 500 năm là vì lý do kinh tế hay chính trị .

Chắc không phải vì lý do kinh tế vì việc di dân vì lý do kinh tế thường là đi từ vùng kinh tế kém phát triển về nơi kinh tế phát triển, từ nơi ít ruộng đất về nơi nhiều ruộng đất. Thường là đi lẻ tẻ vài ba người trong một gia đình; vài ba gia đình trong một dòng họ, một làng xã. Vào năm 1511, Đồ Sơn là vùng đất mới phát triển, ruộng đất nhiều, nghề biển thuận lợi, cư dân chưa đông và cư dân cũng mới từ nơi khác chuyển đến khoảng một, hai trăm năm. Kinh tế chưa đến mức bức bách, buộc hàng trăm gia đình của 12 chi họ, cùng lúc kéo nhau đi, lênh dênh trên bè mảng đến một vùng đất “ ma thiêng nước độc”, không một bóng người. Chưa có điều kiện khảo sát các chi họ khác, nhưng riêng chi Họ Tô là chi họ đông nhân khẩu nhất, lúc đó chắc là di rời đi hết vì hiện nay ở Đồ Sơn và vùng xung quanh, không có một gia đình Họ Tô bản địa nào có gốc tích là Họ Tô Đồ Sơn đầu thế kỷ 16.

Cuộc di dân cấp tốc và triệt để nếu không vì lý do kinh tế thì chắc vì lý do chính trị. Sở dĩ nói đến lý do chính trị vì cuộc di dân này trùng thời điểm (1511 ) và địa điểm ( Đồ Sơn ) với một sự kiện chính trị, được nói đến trong truyện Tả Ao ( trong bài viết “ Hành trình đi tìm gốc tích Tổ tiên “ cùng số báo này ) và trong Đại Việt sử ký toàn thư. Trong truyện Tả Ao, sau khi kể giai thoại về Tả Ao đến Đồ Sơn, truyện viết tiếp: “ Truyện Tả Ao đến Đồ Sơn là truyền ngôn. Còn việc đầu thế kỷ 16, nhân có lời sấm truyền “ Phương Đông có khí sắc Thiên tử “ nên tháng Tư năm Tân Mùi    (1511 ), vua Lê Tương Dực sai Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ  ra Đồ Sơn  để yểm bùa trấn áp thì Đại Việt sử ký toàn thư có chép “.

Trang 778,779 Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép: “ Bấy giờ ( mùa Hạ tháng Tư năm Tân Mùi 1511- TB ), hào kiệt và thuật sĩ đều nói rằng  ở phương Đông có khí sắc Thiên tử, vua sai Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang  đem thuật sĩ ra Đồ Sơn để trấn áp “

Xâu chuỗi các sự kiện đó, có thể phán đoán là: Đồ Sơn lúc đó là một vùng kinh tế, văn hóa phát triển, có những con người  hoặc những chi họ có thế lực. Nhà Lê đang lúc suy vi. Nhà vua giết hại công thần và con cháu nhà vua cũng giết lẫn nhau để tranh cướp ngôi. Vua Lê Uy Mục ( 1505-1509 ) mới lên làm vua đã giết Tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu, giết Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ, giết Đô Ngự sử Nguyễn Quang Bật. Rồi chính vua Lê Uy Mục cũng bị người anh em con chú con bác là Giản Tu công Lê Oanh giết để tự lập làm vua là Lê Tương Dực ( 1510-1516 ). Thường trực nỗi lo phản loạn nên khi nghe tin đồn  “ phương Đông có khí sắc Thiên tử “, Lê Tương Dực sai ngay Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ( và tất nhiên cả binh lính ) ra trấn áp. Và cách trấn áp có hiệu quả nhất là xua đuổi hết cư dân ở đó để triệt mầm phản loạn. Mười hai chi họ ở vùng Đồ Sơn trở thành nạn nhân của cuộc trấn yểm, phải bồng bế nhau rời khỏi nơi chôn rau, cắt rốn, dồn lên bè mảng, vượt qua sóng dữ để đến nơi đèo heo gió hút vùng cực Đông Bắc của Tổ quốc.

Lúc đó không ai ngờ rằng mầm phản loạn lại nằm ngay trong đoàn trấn yểm của Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang. Đại Việt sử ký toàn thư trang 778, 779 chép :” Tấn phong Đô chỉ huy sứ Thiên Vũ vệ Mạc Đăng Dung làm Vũ Xuyên bá. Bấy giờ hào kiệt và thuật sĩ đều nói phương Đông có khí sắc Thiên tử, vua sai Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn để trấn áp. Đăng Dung cùng đi với đoàn ấy mà không ai biết “.

Mạc Đăng Dung là người làng Cổ Trai, tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương   (nên lời đồn phương Đông có khí sắc Thiên tử chắc ứng vào Mạc Đăng Dung- TB), lúc bé làm nghề đánh cá, đến khi lớn có sức khỏe, thi đỗ lực sĩ xuất thân, khoảng năm Hồng Thuận thăng làm Đô chỉ huy sứ Vũ Xuyên bá, làm quan trải ba triều vua ( Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông-TB ). Khoảng năm Thống Nguyên làm đến Thái sư  Nhân Quốc công sau phong An Hưng vương. Ngầm kết bè đảng, trong ngoài hợp mưu, lòng người quy phụ, rồi làm việc cướp ngôi, giết vua, làm giả tờ chiếu nhường ngôi rồi lên làm vua. Tháng ấy ( tháng Sáu năm Đinh Hợi 1527- TB ), Dung vào thành Thăng Long, ở tại chính điện   (Đại Việt sử ký toan thư trang 823 )

                                                                            Tô Bỉnh