NGUỒN GỐC CỦA CÁC BỨC HOÀNH PHI


Ở các đình, chùa, miếu , điện và gian thờ cúng giữa cửa các gia đình thường có những bức hoành phi. Vì hoành phi chỉ có từ 3 đến 5 chữ rất to (“đại tự” có nghĩa là chữ rất to) cho nên cũng gọi là những bức đại tự.

Chữ trên bức đại tự được lấy từ 2 nguồn : Một là do người sáng tác nghĩ ra, hai là vay mượn trong các sách Kinh điển – sau đây xin kể về 5 trường hợp các bức đại tự vay mượn các sách kinh điển.

1.“Ngưỡng chi di can” và “Toản chi di kiêm” : hai bức đại tự này có ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Nó được trích từ sách “Luận ngữ”, chương IX Tử Hân, nguyên văn như sau :

 Nhan Uyên vị nhiên thán viết : ngưỡng chi di cao, thản chi di kiên”.

Nghĩa là : Nhan Uyển thở dài mà nói rằng, đạo của Phu Tử (tức Khổng Tử) càng trông lên lại càng thấy cao, càng bắt chước lại càng thất khó.

Người ta trích nguyên hai đoạn “ngưỡng chi di cao” và “toàn di chi kiên” để làm 2 bức đại tự nói trên.

2.“Cao sơn cảnh hành”. Bức đại từ này có ở Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ. Nó được trích ra từ một bài thơ trong “Kinh Thi”, thiên tửu nhã. Nguyên văn như sau :

“Cao sơn ngưỡng chỉ. Cảnh hành hành chữ.Tứ mẫu phi phi. Lục bí như cầm. Cấu nhĩ tân hôn. Dĩ úy ngã tâm”.

Nghĩa là : Núi cao để người ta trông. Đường lớn để người ta đi. Xe bốn ngựa phi như bay, sáu dây cương căng như dây đàn. Đi đón nàng về làm đám cưới. Cho thỏa nỗi lòng ta.

Người ta chỉ trích ra hai cụm từ “cao sơn” và “cảnh hành” và ghép lại thành “cao sơn cảnh hành” để làm ra bức đại tự nói trên.

3.“Chỉ thị kỳ nghiêm” :Bức đại tự này có ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Nó được vay mượn từ sách “Đại Học” nguyên văn như sau :

“Tăng tử viết : Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ, kỳ nghiêm hồ”.

Nghĩa là : Tăng Tử nói : Mười mắt trông vào, mười tay chỉ đấy, đáng ngại lắm thay!

Người ta trích ra các chữ “chỉ”, “thị”, “kỳ”,   “nghiêm” rồi ghép lại thành “chỉ thị kỳ nghiêm” để làm ra bức đại tự trên.

4.“Tế như tại” : Bức này thường có các đình ,đền, miếu trong các làng xã. Nó được trích từ sách “Luận Ngữ” chương Bát Dật, Nguyên văn như sau :

“Tế như tại. Thế thần như thần tại”

Nghĩa là : tế tổ tiên như tổ tiên đang có mặt, tế thần như thần đang có mặt vậy.

Người ta chỉ trích ra 3 chữ “Tế như tại” để làm ra bức đại tự nói trên.

5.“Quang bị tứ biểu” : Bức này có ở làng Đặng Xá, tỉnh Hà Nam, do cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến viết :

Làng này có nghề làm hàng xáo, quanh năm đem quang gánh, bị dó đi khắp bốn phương mua thóc về để xay giã lấy công làm lãi

Bức đại tự trên, hai chữ “quang bị” là nửa Nôm nửa Hán, hai chữ “tứ biểu” thì thuần Hán. Nếu hiểu theo chữ Nôm thì “quang” là cái quang, “bị” là cái bị. Nếu hiểu theo chữ Hán thì “quang” là sáng, “bị” là trùm lên.

Tiếp theo chữ “tứ” là bốn, “biểu” là bên ngoài, tức bốn phương, bốn cõi.

“Quang bị tứ biểu” tức là đức sáng tỏ khắp bốn cõi.

Nguyên văn bốn chữ “Quang bị tứ biểu” là trích từ “kinh thư” chương nghiêu diễn

“Đế Nghiêu viết: phóng huân, khâm minh, văn tứ, an an, duẫn cung, khắc nhượng, quang bị tứ biểu…”.

Nghĩa là : “Vua Nghiêu xưa có công rất lớn, cung kính, thông minh, văn nhã, ý tứ, mềm mỏng, hay kính, hay nhường, đức sáng của Người tỏa khắp bốn cõi”.

Đó là đoạn ca ngợi vua Nghêu, một ông vua huyền thoại cách nay trên 4000 năm trong lịch sử Trung Quốc.

 

Tô Văn Thặm

sưu tầm