Bài hát “Tình ca Tây Bắc”

Rừng cây xanh lá muôn đoá hoa mai mừng đón xuân về

Vui trong nắng vàng từng đàn bướm trắng bay khắp rừng hoa

 Ngập ngừng bên suối nước reo quanh mình như muôn tiếng đàn

 Bâng khuâng nỗi lòng nhịp sáo ai đưa tiếng ca rộn vang

 

 Em là dòng sông Mã

Anh là núi Mường Hum

Cho thuyền em ngược ( ơ ) dòng gió đưa em về núi

 Em hãy về bên suối

Đợi anh anh ở bên khuông

Anh làm no lòng mường

 Em làm vui ấm bản

Rừng rừng hoa với chim ca vui tưng bừng

 Suối nước trong xanh soi bóng anh và bóng em

 Bên nhau cùng sống vui êm đềm cùng núi rừng

 Đất nước hòa bình hạnh phúc ta như mùa xuân

 

 Anh là rừng xanh thắm

Em là suối ngàn sâu

 Cây rừng anh là ( ơ ) cầu vắt ngang trên dòng suối

 Khi nắng mùa xuân tới

Rừng anh in bóng suối em

Nước chảy quanh êm đềm

Bao ngày đêm vắng vẻ

Rừng rừng hoa với chim ca vui tưng bừng

Suối nước trong xanh soi bóng em và bóng anh

 Bên nhau cùng sống vui êm đềm cùng núi rừng

 Đất nước hoà bình hạnh phúc ta như mùa xuân

                             Bùi Đức Hạnh(phỏng thơ Cầm Giang)

   

Bùi Đức Hạnh sinh năm 1931, năm 1957, ông là diễn viên hát của Đoàn ca múa nhân dân Trung ương (nay là Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam). Tự thấy mình có giọng hát chỉ bình thường, không phải là sô lít (đơn ca) nên ông có ý định chuyển nghề, sang sáng tác hoặc nghiên cứu âm nhạc và đề xuất với lãnh đạo cho lên Hòa Bình một thời gian để sưu tầm nghiên cứu dân ca. Đến với xứ Mường, ông đọc được bài thơ của tác giả Cầm Giang có nhan đề: "Em là dòng sông Mã, anh là núi Mường Hum” in trên báo. Thấy bài thơ giàu yếu tố nhạc điệu, nhiều câu hay, đồng cảm, ông bèn nảy ý định sẽ phổ nhạc thành bài hát. Nhưng bài thơ của Cầm Giang dài những 64 câu, không thể phổ nguyên xi nên ông quyết định chỉ phỏng thơ để tạo thành tác phẩm âm nhạc. Tuy nhiên những câu thơ ông tâm đắc nhất đã được giữ lại để thành lời ca của bài hát:

“Em hãy về bên suối, đợi anh ở bên khuông

 Anh làm no lòng mường, em làm vui ấm bản”

“Anh là rừng xanh thắm, em là suối ngàn sâu

 Cây rừng anh làm cầu, vắt ngang qua dòng suối

 Khi nắng mùa xuân tới, rừng anh in bóng suối em…”.

Ông cho biết: Khi viết Tình ca Tây Bắc, ông hoàn toàn chỉ là nghiệp dư về sáng tác với chút ít hiểu biết về nhạc lý, chỉ võ vẽ ký xướng âm vì là diễn viên đứng trong tốp ca, không hát được đơn ca. Vậy mà Bùi Đức Hạnh đã tạo ra một ca khúc ở thể 3 đoạn có sự thống nhất hài hòa. Bắt đầu đặt bút, ông đã ra những nét nhạc đầu tiên từ việc cảm thụ câu thơ của Cầm Giang:

Em là dòng sông Mã.

 Anh là núi Mường Hum

 Cho thuyền em ngược dòng, gió đưa em về núi.

 Đây chính là những câu dẫn vào đoạn B của bài hát với tiết tấu được giãn ra, dàn trải. Sau khi viết đến hết bài, ông cảm thấy bắt đầu của bài hát không thể “em là dòng sông mã…” nghe bất ổn. Nên ông đã viết phần đầu với lời ca:

 Rừng cây xanh lá muôn đóa hoa mai mừng đón xuân về

 Vui trong nắng vàng từng đàn bướm trắng bay khắp rừng hoa

 Ngập ngừng bên suối nước reo quanh mình như muôn tiếng đàn

 Bâng khuâng nỗi lòng nhịp sáo ai đưa khúc ca rộn vang…

Đó là toàn bộ đoạn A- cũng là đoạn mở đầu của ca khúc. Bằng tiết tấu dàn trải với 4 câu nhạc tương đối dài, phần này như những nét chấm phá đầu tiên trong một bức tranh thủy mặc hấp dẫn. Ngòi bút cuả tác giả qủa là khá tinh tế trong việc cảm nhận và miêu tả mùa xuân ở vùng rừng núi Tây Bắc. Sau khi hoàn thành bài hát, Bùi Đức Hạnh đưa cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, khi ấy là Trưởng đoàn Ca múa nhân dân Trung ương xem. Nguyễn Văn Thương rất nổi tiếng với những bài hát Đêm đông, Bình Trị Thiên khói lửa. Ông vừa là cấp trên vừa là bậc thầy nên Bùi Đức Hạnh muốn được chỉ bảo góp ý cho mình. Nguyễn Văn Thương khen, nhưng nói Bùi Đức Hạnh sửa đoạn B (từ chỗ “em là dòng sông Mã” đến hết “em làm vui ấm bản”) theo hướng giãn tiết tấu hơn so với đoạn A. Bởi vì để thế sẽ không nổi rõ thể 3 đoạn, khiến người nghe thấy đoạn A kéo dài quá bị nhàm. Bùi Đức Hạnh nghe theo và đến nay ông vẫn còn biết ơn việc này. Ông nói: “Không có Nguyễn Văn Thương góp ý, bài hát sẽ không thể có số phận tốt đẹp như đã có. Tôi mãi mãi nhớ ơn Nguyễn Văn Thương”.

Sau khi hoàn chỉnh bài hát, Bùi Đức Hạnh gửi về Ban Âm nhạc Đài tiếng nói Việt nam. Gửi vậy nhưng ông không tin là bài hát được sử dụng, vì lúc ấy ông chỉ là một anh diễn viên hát tốp ca, còn vô danh, khó được người ta để ý. Không ngờ khi trở lại Hoà Bình ít ngày, ông thấy tác phẩm của mình vang lên trên làn sóng và nhanh chóng lan truyền. Lãnh đạo Khu tự trị Tây Bắc khi ấy đã coi ca khúc này là bài hát chính thức, là “khu ca” (như Quốc ca, tỉnh ca). Về sau bài hát được nhiều đoàn văn công dàn dựng biểu diễn khắp nơi ở trong nước và cả ở nước ngoài. Cũng có rất nhiều nghệ sĩ biểu diễn bài hát này, trong đó phải kể đến cặp song ca Bích Liên – Kiều Hưng gây được ấn tượng đặc biệt. Chất giọng trong sáng, giọng hát long lanh như sương của Bích Liên hòa quyện vào chất giọng ngọt ngào đằm thắm của Kiều Hưng đã lột tả được hết vẻ đẹp kiều diễm của Tình ca Tây Bắc. Qua sự thể hiện của hai nghệ sĩ trên, người nghe thấy có cái gì đó vừa náo nức lại bâng khuâng, vừa xốn xang lại bịn rịn, vừa rộn rã muốn vút lên lại như thâm trầm lắng đọng… Rất nhiều cảm xúc, tâm trạng hòa trộn mà nhạc sĩ đã tạo dựng được trong giai điệu đầy sức tìm tòi sáng tạo.

Một điều thú vị nữa là bài hát không dựa hẳn vào một làn điệu dân ca nào của Tây Bắc, nhưng nổi rất rõ phong vị âm nhạc của xứ sở này, không thể lẫn lộn với Việt Bắc hoặc bất cứ địa phương nào. Chất xòe Thái chỉ loáng thoáng xuất hiện ở đoạn C (có tiết tấu 6/8). Đây thực sự là một ca khúc đáng để cho những người mới cầm bút sáng tác có thể khai thác học tập được rất nhiều điều về tìm tòi, sáng tạo giai điệu, bố cục tác phẩm, đặc biệt là về nghệ thuật phổ thơ.

Đã hơn 50 năm trôi qua, Tình ca Tây Bắc vẫn là bài hát hay nhất về Tây Bắc và là một trong những bài hát đặc sắc viết về mùa xuân, về quê hương đất nước. Riêng nhạc sĩ Bùi Đức Hạnh đã có được một sản phẩm tinh thần vô giá, khó gì có thể so sánh và được mệnh danh là “nhạc sĩ của một bài”.

Sau này, Bùi Đức Hạnh trở thành nhà nghiên cứu Chèo, Nghệ sĩ ưu tú, nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam. Đến nay, nhà nghiên cứu Chèo Bùi Đức Hạnh vẫn là người đầu tiên và duy nhất chuyên ghi nhạc cho các làn điệu Chèo qua cuốn sách “150 làn điệu chèo cổ”. Nửa thế kỷ gắn bó với làn điệu chèo, dấu ấn mà nhà nghiên cứu Bùi Đức Hạnh để lại là những công trình nghiên cứu công phu về chèo như: “Tìm hiểu âm nhạc sân khấu chèo”, “150 làn điệu chèo cổ”… Trong đó, cuốn “150 làn điệu chèo cổ” dày hơn 600 trang là một công trình mà ông đã dành tâm huyết suốt mấy mươi năm. Từ khi ra đời đến nay, cuốn sách trở thành cẩm nang của nhiều nghệ sĩ thuộc các đoàn chèo trên cả nước và trở thành một tác phẩm nằm trong cụm tác phẩm của Bùi Đức Hạnh được vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (cùng với ca khúc Tình ca Tây Bắc và bản nhạc không lời cho vở Cô Son).

                                                                 Tô Trúc Phương