HỌ TÔ THÔN MỸ LƯƠNG, XÃ VĂN LANG, HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH


       Mô hình trồng dưa lưới ở Hưng Hà sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt hiện đại theo công nghệ Israel (Ảnh TL)

          Chi họ trước đây có gia phả, nhưng trong kháng chiến chống Pháp giấy tờ ngọc phả phải chôn giấu nên bị mục nát, hư hỏng rất nhiều. Sau đó các chi họ thu thập tư liệu chắp nối lại. Tuy không còn như cũ, song về cơ bản họ tộc cũng có được gia phả trong dòng họ, nhờ  có cụ Tô Thu Luyện, là người cao tuổi nhất của họ, thông thạo chữ Hán đã dịch ra quốc âm cho con cháu biết nguồn gốc Thủy tổ.

          Ngọc phả chép lại: Thủy tổ Họ Tô nguyên là con cháu nhà Tiền Lê. Khi nhà Tiền Lê mất ngôi vua, Lý Công Uẩn lên ngôi vì nhiều lý do con cháu Nhà Lê phải ly tán đi nhiều nơi để bảo tồn dòng họ.

          Thủy tổ là Lê Phúc Đa, Tổ mẫu là Từ Nhan, quê xã An Thái, huyện Thanh Liêm (?), tỉnh Thanh Hóa, giả làm hàn nho di cư đến Minh Lương Trang, thuộc Phố Hiến cũ (Hưng Yên), nay là thôn Mỹ Lương, xã Văn Lang, huyện Hưng Hà, đổi từ Họ Lê sang Họ Tô. Sinh 2 con trai.

          Trưởng nam là Tô Phúc Trạch, sau chuyển đến xã Phương La và đổi từ Họ Tô sang Họ Đào. Họ Đào ở Phương La khá đông, trước đây cứ đến tiết Thanh Minh, con cháu các nơi vẫn về Mỹ Lương yết kiến tiên tổ. Sau Cách mạng Tháng 8 rồi kháng chiến chống Pháp, kinh tế quá khó khăn, việc đi lại không thuận lợi, do đó mối quan hệ họ hàng anh em dòng tốc bị đứt đoạn.

          Cụ Tô Nhân Tôn, sinh năm 1927, làm 4 câu thơ nói về gốc tích chi họ:

          Tổ tôi gốc tích Tiên Lê

          Tổ đi lánh nạn đổi là Họ Tô

          Đào Tô hai họ một nhà

          Di cư hai xã Hưng Hà ngày nay

          Thứ nam Tô Phúc Thiện, ở lại Lương Minh Trang, lập nghiệp khai cơ thành chi họ Tô thôn Mỹ Lương hiện nay. Trong quá trình phát triển chi họ chuyển cư đi nhiều nơi:

          1 nhánh vào Kiên Giang năm 1981

          1 nhánh lên xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên

          1 nhánh lên Tuyên Quang

          1 nhánh lên Điện Biên

          1 nhánh ra Hải Phòng từ năm 1905, đến nay đã được 6 đời, con cháu đã tìm về quê gốc.

          Ở quê hiện nay có 142 hộ với 476 nhân khẩu, tính từ Thủy tổ đã đến đời thứ 17. Nghề nghiệp chính là làm ruộng, có một số làm nghề xây dựng.

          Trong hai cuộc kháng chiến chi họ có 81 người tham gia lực lượng vũ trang, có 80 người được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

          Trong họ có 15 con cháu tốt ngiệp đại học, trong đó có 2 gia đình có 2 con đều là kỹ sư, bác sĩ.

          Tô Đăng Thung (Đời 15)