PGS.TS TÔ VĂN HẢI NGƯỜI BÁC SĨ TẬN TÂM VỚI KHOA HỌC

Làm khoa học chưa bao giờ là một công việc dễ dàng, cuộc sống của người làm khoa học sẽ có lúc gặp khó khăn, có lúc vui, lúc buồn, cũng sẽ có rất nhiều kỉ niệm trên con đường đó. Người làm khoa học không đơn giản là chỉ cần có tri thức, có tài mà còn cần phải có cái tâm, có sự say mê nghiên cứu và cống hiến nữa. PSG.TS Tô Văn Hải, không chỉ là một bác sĩ giỏi của ngành y, mà còn là một nhà nghiên cứu khoa học có nhiệt tâm với nghề. Hiện nay PGS.TS Tô Văn Hải là người Thầy thuốc ưu tú có nhiều đóng góp cho ngành Y nói riêng và công tác nghiên cứu khoa học nói chung. Ông là bác sĩ cao cấp, bác sĩ chuyên khoa cấp 2 chuyên ngành Nhi, nguyên là phó giám đốc Bệnh viện Thanh Nhàn, giảng viên chính của Trường Đại học y Hà Nội.

Những kỉ niệm khó quên của tuổi thơ nghèo khó

PGS.TSTô Văn Hải sinh ngày 17 tháng 9 năm 1952. Quê quán tại thôn Mỹ Nội, xã Bắc Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội. Lớn lên trong thời kì đất nước loạn lạc, tuổi thơ của ông không chỉ có bom đạn chiến tranh mà còn có những kí ức đau thương về cuộc sống gia đình không trọn vẹn. Cha ông có hai người vợ, ông là con của bà vợ hai, cha ông sống với vợ cả. Mẹ ông cùng với ba con sống lẻ loi trong căn nhà tranh vách đất, lam lũ cực nhọc nuôi các con khôn lớn. Rồi bệnh tật cùng nỗi buồn mòn mỏi suốt 10 năm đã làm mẹ ông héo mòn, kiệt quệ. Cảnh nghèo vẫn cứ tiếp tục đeo bám gia đình ông, em gái ông, cũng vì bệnh tật kéo dài mà không có điều kiện chữa trị nên mất sớm khi mới 5 tuổi. Gia cảnh nghèo khó, không có tình thương của người cha, nhưng bù lại, ông lại được nhận tình yêu thương bao la của người mẹ. Mẹ ông là người luôn nhắc nhở, động viên ông học tập, bà luôn nhắc ông về những tấm gương học tập của nhiều người, đặc biệt là người cậu ruột đã tốt nghiệp đại học vào năm 1960.

Nhưng rồi bệnh tất kéo dài khiến mẹ ông ngày càng yếu hơn. Năm 1966, người anh đang học lớp 9 của ông đi bộ đội, nhà chỉ còn hai mẹ con, cuộc sống càng ngày càng khó khăn, khi đó mọi trách nhiệm trong gia đình đều đè nặng lên đôi vai của cậu bé 14 tuổi. Thế nhưng mẹ ông vẫn luôn động viên ông tiếp tục chăm chỉ học tập, chỉ có con đường học tập mới có thể giúp ông vượt qua cảnh nghèo khổ, là tương lai sáng nhất mà ông có thể đạt được. Mùa đông năm 1967, mẹ ông qua đời sau 11 năm lao lực và bệnh tật hành hạ. 15 tuổi, ông bắt đầu cuộc sống tự lập, bố ông muốn ông nghỉ học, sang ở với gia đình bà cả, nhưng vượt qua nỗi đau và luôn ghi nhớ lời mẹ, ông tiếp tục ở riêng một mình để đi học.

Đó là những năm tháng khó khăn và khó quên nhất trong cuộc đời của PGS.TS Tô Văn Hải. Trong suốt ba năm cấp 3, để có thể tiếp tục đến trường, ngoài tham gia công việc nhà nông, Ông còn chăn nuôi lợn khá nhiều, làm thêm nhiều việc khác như phụ hồ, thợ xây, đào giếng... để kiếm tiền ăn học. Tháng 6 năm 1969, ông tốt nghiệp cấp ba với thành tích tốt. Nhớ đến người mẹ đã từng nhiều năm bị bệnh tật dày vò cùng gia cảnh khốn khó của mình trước đây, ông đã quyết định chọn con đường y học, với mong muốn sau này có thể trở thành người bác sĩ giỏi, giúp khám chữa bệnh cho nhiều người.

Chàng sinh viên y khoa đến người bác sĩ tài đức

Rời bỏ làng quê nhỏ lên đường nhập học với bao nhiêu hoài bão và mong ước được học tập, được trở thành một người bác sĩ tốt, để được cống hiến và giúp sức cho mọi người, cho đất nước. Hồi đất đất nước còn chìm trong chiến tranh, việc đến trường cũng trở nên vô cùng gian nan và vất vả. Ông vẫn còn nhớ, hồi ấy trong suốt 6 năm học đại học không có xe đạp, khi đăng kí thủ tục nhập trường, ông và bạn học đã phải đi bộ hơn 20 cây số để vào nơi sơ tán của trường ở xã Cao Viên, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Sinh viên được sắp xếp ở trong các gia đình của thôn, xã, dù hồi đó họ cũng không khá giả nhưng vẫn rất quý sinh viên và sẵn sàng giúp đỡ đùm bọc những sinh viên trẻ lúc bấy giờ. Đến năm thứ ba, ông lại chuyển về xã Đồng Mai, gần dốc Mai Lĩnh, thuộc huyện Thanh Oai để học tập và thực tập tại cơ sở sơ tán của bệnh viện tỉnh Hà Đông. Từ năm thứ tư đến năm thứ sáu, ông về học tại Hà Nội. Lúc đó, đời sống kinh tế khó khăn, trợ cấp của nhà nước cho sinh viên không đủ sống, mỗi chủ nhật, nếu không phải đi trực ở bệnh viện thì ông lại nhận gánh gạch ngói thuê ở nhà máy gạch Đại La ở cuối phố Cát Linh (nay là khách sạn Horison). Dù cuộc sống có khó khăn, vất vả những ông chưa bao giờ bỏ quên việc học. Năm thứ tư, ông đăng kí vào chuyên khoa Nhi. Sau hai năm học tập chăm chỉ, ông đạt kết quả học tập loại giỏi và được bộ môn Nhi Đại học Y Hà Nội nhận về làm giảng viên. Từ tháng 9 năm 1975 đến tháng 6 năm 1979, ông vừa dạy học vừa công tác ở Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em  (Nay là bệnh viện Nhi trung ương).

Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, bác sĩ Tô Văn Hải cùng nhiều giảng viên khác của Trường Đại học Y Hà Nội theo lệnh tổng động viên vào bộ đội công tác. Ông được phân về Quân chủng phòng không làm Bác sĩ chủ nhiệm quân y ở Trung đoàn 274, Sư đoàn 377 đóng quân ở hai cơ sở là gần thị xã Yên Bái và gần thị trấn Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Tại đây ông đảm nhận công việc khám chữa bệnh, phòng bệnh dịch cho bộ đội. Ngoài ra ông cũng tiếp tục làm công tác đào tạo chuyên môn kĩ thuật cho đội ngũ các y bác sĩ, y tá của đơn vị ở sư đoàn 377. Sau hơn hai năm ông được chuyển về giảng dạy ở trường Quân y của quân chủng Phòng không tại huyện Phổ Yên, tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên).

Từ tháng 6 năm 1979 đến tháng 10 năm 1985 ông trở thành Đại úy bác sĩ quân y F377 và Phòng quân y chúng phòng không. Trong thời gian này, ông thường xuyên được cử đi kiểm tra, giúp đỡ công tác quân y ở hầu hết sư đoàn phòng không trong cả nước. Sau gần 7 năm công tác trong màu áo xanh quân ngũ, đến tháng 11 năm 1985, ông được đáp ứng nguyện vọng trở về làm công tác giảng dạy tại Bộ môn Nhi, Đại học Y Hà Nội. Không chỉ dành tâm huyết cho việc giảng dạy, hướng dẫn cho các thế hệ sinh viên Y khoa kế tiếp, ông cùng làm tròn trách nhiệm của một người bác sĩ, dốc lòng khám chữa bệnh cho bệnh nhân. Ông đồng thời cũng cũng khám chữa bệnh tại các bệnh viện là các cơ sở thực hành của sinh viên Y khoa, và làm việc ở Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em, bệnh viện Hai Bà Trưng ( nay là bệnh viện Thanh Nhàn ) và bệnh viện Xanh Pôn Hà Nội

Con đường đến với nghiên cứu khoa học

Con đường đến với khoa học của PGS.TS Tô Văn Hải cũng được coi là một cái duyên. Ngay sau khi trở về trường Đại học Y Hà Nội (cuối năm 1985) ông đã tiếp tục học tập và trau dồi kiến thức cho bản thân mình, ông đã được học kĩ thuật siêu âm tim với sự hướng dẫn trực tiếp từ giáo sư, Tiến sĩ Phạm Gia Khải, là Phó viện trưởng Viện Tim mạch quốc gia và là Chủ nhiệm bộ môn Tim mạch, Đại học Y Hà Nội.

Từ đó, ông đã sử dụng kĩ thuật siêu âm tim để tiến hành nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Bác sĩ chuyên khoa 2 năm 1990 và Luận án Phó tiến sĩ khoa học y dược năm 1995. Sau khi hoàn thành Luận án phó Tiến sĩ, ông tiếp tục công tác tại bộ môn Nhi của Trường Đại học Y Hà Nội. Tháng 9 năm 1996, ông được bổ nhiệm chức vụ trưởng phòng nghiệp vụ sở y tế Hà Nội. Tháng 11 năm 1998, ông trở thành phó giám đốc bệnh viện Thanh Nhàn Hà Nội, ông cũng là chủ tịch hội đồng khoa học bệnh viên Thanh Nhàn liên tục trong 14 năm (1999 – 2012). Cùng thời gian đó, ông cũng đồng thời là giảng viên kiêm nhiệm và hướng dẫn nhiều cao học của 5 trường đại học: Học viện Quân y, Đại học y Hà Nội, Đại học Y khoa Huế.

Không những giảng dạy, khám chữa bệnh cho bệnh nhân, PGS.TS Tô Văn Hải còn dành rất nhiều thời gian và tâm huyết cho công tác nghiên cứu khoa học. Ông là một trong những lá cờ đầu, tiên phong trong việc xây dựng phong trào nghiên cứu khoa học của bệnh viện Thanh Nhàn. Từ năm 1998 trở về trước, bệnh viện mỗi năm chỉ có 4 – 5 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. Từ năm 1999 đến nay, sau khi ông trở thành Chủ tịch Hội đồng khoa học, kiêm phó Chủ tịch thường trực Hội Nội khoa Hà Nội (1999 – 2007), Chủ tịch Hội Nội khoa Hà Nội từ 2007 tới nay. Hàng năm ông đều thường xuyên, chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiên cứu khoa học của Bệnh viện Thanh Nhàn thành nề nếp và phong trào ngày càng mạnh mẽ. Mỗi năm bệnh viện Thanh Nhàn đã tiến hành được 40 -50 đề tài nghiên cứu cấp cơ sở và 2 -4 đề tài nghiên cứu cấp thành phố và cấp Bộ. Trong đó, cá nhân PGS.TS Tô Văn Hải cũng tích cực tham gia nghiên cứu khoa học và chủ động hướng dẫn nhiều bác sĩ, điều dưỡng, kĩ thuật viên tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học. Từ năm 1999 đến 2012, riêng cá nhân PGS.TS Tô Văn Hải đã có 53 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, 2 đề tài cấp thành phố và hướng dẫn 176 chủ các đề tài cấp cơ sở. Trong 10 năm gần đây (2004 – 2012), ông đã làm chủ nhiệm của 40 đề tài nghiên cứu và hướng dẫn 122 chủ đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở đã được nghiệm thu 100% đạt yêu cầu, trong đó có 94% đạt loại giỏi và xuất sắc.

Ngoài ra, trong quá trình công tác PGS.TS Tô Văn Hải cũng đã có 200 bài báo cáo khoa học đăng trong các tạp chí y học có giá trị toàn quốc và quốc tế, có thể kể đến như: Tình hình bệnh Tim và Khớp điều trị tại khoa Tim mạch Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em trong 10 năm, Kỉ yếu công trình NCKH 10 năm viện BVSKTR (1991); Đánh giá kích thước của tâm thất trái ở 52 bệnh nhi thấp tim tiến triển đợt I bằng phương pháp siêu âm, Nhi khoa –tổng hội y dược học Việt Nam (1994); Các loạn nhịp tim thường gặp tại bệnh viện Hai Bà Trưng – Hà Nội, Kỉ yếu các đề tài KH – Đại hội tim mạch học quốc gia lần 8, tạp chí Tim mạch học Việt Nam (2000); Tăng huyết áp và biến đổi điện tim ở người bệnh đái tháo đường điều trị nội trú tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hội nghị khoa học tim mạch phía nam lần IX, TP.Hồ Chí Minh, Hội tim mạch học Việt Nam (2009)...

 Những nghiên cứu khoa học của ông thường là những nghiên cứu có tính ứng dụng vào công tác khám chữa bệnh. PGS.TS Tô Văn Hải không chỉ say mê nghiên cứu khoa học, ông còn đem những kiến thức và kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy được viết bà xuất bản sách y học phục vụ cho công tác giảng dạy cũng như chuyên môn của ngành y học. Một số sách đã xuất bản lưu hành toàn quốc như: Bài giảng Nhi khoa tập II – Nxb Y học năm 2003, sách giáo khoa của trường Đại học Y Hà Nội; Số tay tóm tắt điều trị một số bệnh thường gặp – Nxb Y học năm 2004; Chẩn đoán và điều trị các bệnh cấp cứu – Hồi sức tích cực Nội khoa – Nxb Y học năm 2011; Chẩn đoán và điều trị các bệnh Nội khoa thường gặp – Nxb Y học năm 2012...

Ông không chỉ là người thầy giáo, là bác sĩ, vừa là nhà nghiên cứu khoa học, ông  đồng thời cũng là một người quản lí, định hướng có tâm huyết. Từ năm 1999 đến năm 2012, mỗi năm ông đều là trưởng ban biên tập và chủ trì tổ chức các Hội nghị khoa học. Trong vòng 14 năm từ 1999 đến 2012, ông cũng đã tổ chức thành công 7 Hội nghị khoa học của bệnh viện, 2 Hội nghị khoa học của điều dưỡng nhân dịp kỉ niệm ngày truyền thống của bệnh viện và ngày giải phóng thủ đô 10/10 và 7 Hội nghị khoa học của Hội Nội khoa Hà Nội . Ông đã là chủ biên của 16 quyển kỉ yếu nghiên cứu khoa học của bệnh viện Thanh Nhàn và Hội Nội khoa Hà Nội. Ông đã được Hội đồng học hàm quốc gia trao quyết định là Phó giáo sư y học năm 2004 và Bộ Nội vụ trao quyết định là Bác sỹ cao cao năm 2005.

Với những đóng góp và cống hiến hết sức mình đó, PGS.TS Tô Văn Hải đã vinh dự nhận được nhiều thành tích đáng nể phục như là Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở liên tục trong 6 năm (2005 – 2010); Chiến sĩ thi đua cấp thành phố năm 2006; Người tốt việc tốt cấp ngành liên tục 6 năm (2005 – 2010); nhận nhiều bằng khen của quận, các cấp ban ngành như bằng khen của Tổng hội y học Việt Nam, 3 bằng khen của UBND TP. Hà Nội, 2 bằng khen của thủ tướng chính phủ, đặc biệt năm 2005 ông được Chủ tịch Nước trao danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú”...

Từ năm 2012 đến nay , tuy ông đã về hưu nhưng vẫn thường xuyên hướng dẫn các bác sỹ thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, tham gia chủ trì các hội nghị khoa học trong cả nước và thành phố Hà Nội, vẫn tiếp tục giảng dạy truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp cho các thày thuốc trẻ của các bệnh viện . Hiện nay Ông đang là giám đốc của một bệnh viện ngoài công lập, là ủy viên ban chấp hành Hội Nội khoa và Hội Nhi khoa Việt Nam, là chủ tịch Hội Nội khoa Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Tim Mạch Hà Nội và Phó chủ tịch Hội Nhi khoa Hà Nội.

Nhìn lại chặng đường đã qua, nhìn lại những năm tháng tuổi thơ và giai đoạn trưởng thành thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần, PGS.TS Tô Văn Hải vẫn không khỏi bồi hồi, xúc động. Ông không bao giờ quên được những ngày tháng đó, không bao giờ quên được sự động viên, tương lai mà người mẹ nghèo khó đã trao cho ông. Ông vẫn thường xuyên nhớ lại và biết ơn những người trong gia đình, xóm làng đã từng động viên, giúp đỡ ông trải qua những năm tháng gian nan của tuổi trẻ. Mẹ ông và những năm tháng không thể nào quên đó đã trở thành động lực để ông học tập, phấn đấu và nỗ lực không nghỉ để có thể đạt được những thành quả như ngày hôm nay. Bây giờ, ông có thể tự hào về những gì mà ông đã làm được, về lời hứa không từ bỏ của ông với mẹ mình và tự hào vì ông đã và đang làm công việc cứu người đầy thiêng liêng và tiếp tục là người truyền cảm hứng, trao kiến thức cho những thế hệ tiếp theo, những thế hệ tương lai của đất nước.