Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng tại Quảng Nam (Ảnh TL)
Đất nước tôi.
Thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ
Ba lần tiễn con đi
Hai lần khóc thầm lặng lẽ
Các anh không về, mình mẹ lặng im.
Đất nước tôi,
Từ thuở còn nằm nôi
Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa
Lao xao trưa hè một giọng ca dao.
Xin hát về Người, đất nước ơi
Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi
Suốt đời lam lũ
Thương lũy tre làng bãi dâu bến nước
Yêu trọn tình đời muối mặn gừng cay.
Xin hát về Người, Đất nước ơi
Xin hát về mẹ, Tổ quốc ơi
Mấy mùa không ngủ
Ngăn bước quân thù phía Nam phía Bắc
Vai mẹ lại gầy gánh gạo nuôi con.
Xin hát về Người, đất nước ơi
Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi
Tảo tần chung thuỷ
Như những câu hò lắng trong tiếng sáo
Đêm lạnh dặt dìu tiếng mẹ ru con
Xin hát về Người, đất nước ơi
Xin hát về mẹ, Tổ quốc ơi
Vẫn còn gian khổ
Hạt thóc chia đều, dẫu no dẫu đói
Ta bạn vẹn tình đắng ngọt cùng vui
Đất nước tôi. Đất nước tôi
Sáng ngời muôn thuở
Khi “trăng đã vào cửa sổ đòi thơ”.
Bài thơ “ Đất nước” của Tạ Hữu Yên
Nhà thơ Tạ Hữu Yên (1927-2013), quê ở thôn Đông Hội, xã Ninh An, Hoa Lư, Ninh Bình. Ông nhập ngũ năm 1948 vào Tỉnh đội Ninh Bình rồi về Ban Địch vận, Liên khu 3. Do yêu cầu công tác, ông thường làm ca dao binh vận, kêu gọi anh em đi lính cho Pháp quay súng trở về với quê hương. Sau đó ông học Trường tuyên giáo Trung ương, rồi làm việc tại Phòng Phát thanh binh vận, Cục Địch vận, Tổng cục Chính trị. Hai năm 1966, 1967 ông có mặt ở vĩ tuyến 17 (Vĩnh Linh) tiếp tục làm thơ, viết báo, in truyền đơn kêu gọi những người lính Cộng hòa quay súng về với nhân dân. Đây là khoảng thời gian ông chịu nhiều gian khổ, ác liệt và có những kỷ niệm sâu sắc nhất. Ông thường kể: Bên bờ Nam Quân lực Việt Nam cộng hoà thường xuyên bắn pháo, máy bay Mỹ thả bom suốt ngày đêm, không có ngày nào ngớt tiếng bom pháo. Chúng tôi bên bờ Bắc ở trong một căn hầm sâu ba mét, được chứng kiến nhiều người đã hy sinh và tôi thấm thía từng giọt máu của đồng đội và từng tấc đất thân yêu…Sau 42 năm phục vụ quân đội, ông nghỉ hưu năm 1990, tại phường Tương Mai, Hoàng Mai, Hà Nội, tiếp tục làm thơ, viết báo, nay ông xuất bản được 64 đầu sách thơ, văn các loại và có 168 bài thơ được phổ nhạc. Riêng năm 2008, ông có 4 đầu sách do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và Thanh niên ấn hành.
Bài thơ “Đất nước” ông viết vào khoảng năm 1980, sau một chuyến đi thực tế ở Thái Bình. Ông kể: Ở đấy tôi được gặp những bà mẹ tiêu biểu, quanh năm một nắng hai sương, vất vả nuôi con, nuôi cái. Khi con lớn thì cho vào bộ đội, thanh niên xung phong rồi hy sinh cho đất nước, để mẹ một mình nơi xóm vắng. Một trường hợp đã gây ấn tượng mạnh trong tôi là có bà mẹ sinh được ba người con trai, cả ba đều khôi ngô tuấn tú. Hai người con đầu vào miền Nam chiến đấu rồi lần lượt hy sinh. Người con thứ ba đang học phổ thông nằng nặc đòi lên đường để trả thù cho hai anh. Được mẹ đồng ý ký vào đơn tình nguyện, anh nhập ngũ rồi vào chiến trường miền Nam và lại hy sinh. Hai người con đầu hy sinh, mẹ khóc. Nhưng không dám khóc to, chỉ khóc vụng, khóc thầm, sợ ảnh hưởng đến các bà mẹ khác và tinh thần đầu quân giết giặc lập công của thanh niên. Đến người con thứ ba hy sinh thì mẹ không hề khóc. Đôi mắt cứ ráo hoảnh như nước mắt đã cạn khô, như mẹ chưa hề khóc bao giờ. Mẹ sống trong im lặng, đêm đêm nghe tiếng gió xào xạc ở bờ tre ngoài cổng, khóm chuối sau nhà hay tấm dại trước hiên, tưởng các con về, mẹ dậy ra mở cửa. Một đêm trở dậy vài lần, không gặp được ai, mẹ trở lại giường thao thức, rồi lẩm bẩm một mình như chuyện trò, hờn rỗi với các anh. Từ câu chuyện đó mà tôi đã viết nên bài thơ “Đất nước”. Nhưng nếu viết thành thơ: Ba lần tiễn con đi, ba lần khóc thầm lặng lẽ thì nỗi đau lớn quá. Nên tôi viết chỉ hai anh hy sinh thôi, còn một anh sẽ trở về với mẹ. Dù là trở về trong tâm linh, trong tiếng gió xào xạc của đêm đêm.
Ban đầu, bài thơ dài hơn 40 câu, đọc cho một số bạn thơ nghe, ai cũng khen và bảo: Viết về người mẹ Việt Nam thì nên gửi cho Vĩnh Phú (nay là hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc), là nơi đất Tổ của cha Lạc Long quân và mẹ Âu Cơ. Thế là bài thơ ra mắt ở Tạp chí Văn nghệ của Vĩnh Phú. Năm 1983, tôi vào thành phố Hồ Chí Minh công tác, nhà thơ Dương Trọng Dật và nhà văn Trần Văn Tuấn tiếp tục đăng ở Báo Sài Gòn giải phóng sau khi tôi đã “chuốt” lại. Nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn phổ nhạc và hình như ca sĩ Cẩm Vân hát lần đầu tiên. Bài hát đã nhanh chóng đi vào lòng người và được các nam nữ ca sĩ chọn hát đơn ca dự thi trong các cuộc hội diễn của ngành, địa phương và đều đạt Huy chương vàng và bạc hoặc giải A.
Có người cho là, tôi viết “ba lần tiễn con đi” ý nói; mẹ tiễn con đi một lần chống Pháp, một lần chống Mỹ và một lần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nhưng tôi đã nhân cách hóa đất nước như người mẹ. Người mẹ và đất nước hòa vào nhau. Thời kỳ nào cũng vậy, khi đất nước có nắng lửa, bão giông và giặc giã thì mẹ là người hy sinh nhiều nhất. Hy sinh cả cuộc đời mình, cả những giọt máu của mình, là những đứa con thân yêu cho Tổ quốc, cho Đất nước rạng ngời muôn thuở.
Tô Bảo Minh
- Phát huy giá trị lịch sử, văn hóa và tiềm năng du lịch Đền Tô Thị Hoạn
- Nhà thơ Tô Nhuần - một phác thảo gần
- SI ĐÔ LA
- MÙA THU HÀ NỘI
- Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Tết Trung thu
- Phẫn nộ câu nói “Thà đền một lần còn hơn nuôi suốt đời” của giới tài xế xe tải
- Về Ðông Môn nghe nhịp phách, trống chầu...
- Cúng rằm tháng 7 năm 2024 vào ngày nào, giờ nào tốt nhất?
- Nhà thơ Tô Hà và “mối tình si” với Thơ
- Tết Đoan ngọ 2024 là ngày nào?
- Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
- Lễ báo công truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND đồng chí Tô Quyền
- Thuỷ Tổ Họ Tô Việt Nam là ai?
- ANH HÙNG “MÌN GẠT”
- VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ HIỆN NAY.
- BÀI PHÁT BIỂU TẠI LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐÌNH THUẦN LƯƠNG CỦA NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN LAN
- Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?
- LỚP TRƯỞNG TÔ HIỆP NHỚ VỀ LỚP ĐỆ NHẤT B “ĐẶC BIỆT”
- Đôi điều cần làm rõ trong sự tích Tô Hiến Thành
- Đất nước và người mẹ trong thơ Tạ Hữu Yên
Hôm nay : 149
Tháng hiện tại : 24683
Tổng lượt truy cập : 2798481