NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN LAN KẾ CHUYỆN SÔNG TÔ LỊCH 2000 NĂM- PHẦN 2


Cho đến trước khi bị lấp một phần, sông Tô bắt nguồn từ sông Hồng chảy từ Đông sang Tây rồi xuôi xuống phía Nam Hà Nội. Hồ sơ lưu trữ của người Pháp cho thấy, 30 km chiều dài sông Tô chở theo mạch nguồn lịch sử 2000 năm, có đến 30 làng xã dựa vào dòng nước vừa trong vừa mát ấy mà ra đời, rồi thịnh suy theo dòng nước.

 

Sơ đồ thể hiện sự ảnh hưởng lịch sử và văn hoá của dòng sông Tô Lịch với những ngôi làng ven sông. Sơ đồ được chúng tôi vẽ lại một phần từ tài liệu "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" 

(tạm dịch: Sông Tô Lịch trong cảnh quan Hà Nội) của Đỗ Xuân Sơn.

Khởi thủy sông Tô Lịch đã đóng vai trò như một tuyến đường giao thông quan trọng của Long Đỗ Hương, vốn đã có được dòng lạch to lớn. Sử sách chép lại, sông Tô Lịch xưa dài 30 km, bề ngang rất rộng và là hệ thống giao thông đường thủy quan trọng từ phía Đông vào thành Thăng Long. Dân gian miêu tả nó như thế này:

Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền em sát thuyền anh
Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.

Hoặc: Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng lướt gần lướt xa
Thon thon hai mái chèo hoa
Lướt đi, lướt lại như là bướm bay

 

Điểm cốt yếu tạo ra sức sống và vẻ đẹp của sông Tô Lịch chính là nằm ở 2 cửa thông với sông Nhị Hà. Hai cửa sông này như hai huyệt đạo quyết định đến sự tồn vong của dòng sông. Cửa thứ nhất ở khu vực phố Chợ Gạo ngày nay. Nó nằm ngay dưới nền của tòa nhà Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam, tòa Techcombank đồ sộ.

Tranh vẽ thể hiện cửa sông nơi sông Tô Lịch giao với sông Hồng ngày xưa (là phố Chợ Gạo ngày nay).

Nguồn: "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" của Đỗ Xuân Sơn.

Theo thực địa thì vào năm 1889, thực dân Pháp với chính sách lục địa hóa, đồng bằng hóa, mở rộng Hà Nội đã cho lấp đoạn đầu nguồn này của sông Tô Lịch. Từ đó mới xuất hiện phố Chợ Gạo. Có tên Chợ Gạo là bởi vì, nó là chỗ để người ta thuyền bè ngược xuôi buôn gạo ở ngay cửa sông Tô.

Từ phố Chợ Gạo, dòng Tô thông sang phố Nguyễn Siêu ngày nay. Tại sao con phố đó có tên là Nguyễn Siêu? Tại vì khu làng ven bờ sông đó, vốn có nhà của ông Nguyễn Văn Siêu. Ông sống ở đó từ nhỏ, sau thành tài, mở trường dạy học ngay bên bờ sông.

Tranh vẽ mô tả cửa sông Tô Lịch (Chợ Gạo ngày nay) và quang cảnh,

đời sống trong thành Thăng Long xưa. Nguồn trích dẫn: 36hn

Sông Tô lúc bấy giờ rộng lớn mênh mang, vừa là nơi thuyền bè tập kết buôn bán nhưng đồng thời cũng là nơi ngân nga những tiếng giảng bài, đọc thơ của các danh sĩ đến đây ngâm vịnh. Đặc biệt là danh sĩ Nguyễn Siêu, người xây đền Ngọc Sơn, người để lại bút tích Tả Thanh Thiên ở Tháp Bút, chính là ông ấy đấy. Ở số nhà 12 phố Nguyễn Siêu bây giờ ngày xưa là trường Phương Đình của Nguyễn Văn Siêu. Đình là cái nhà to, Phương là vuông. Và ông đã có câu rất hay:

Cố tri viên thị trí
Nguyện thủ phương vi hình

(Vẫn biết rằng tròn là khôn đấy
Nhưng ta quyết chọn sống vuông)

Có lẽ vì lựa chọn của mình như thế, mà ông xây ngôi trường hình vuông và đặt tên là Phương Đình ở ngay bên bờ sông Tô Lịch.

Vì thế mà đến năm 1889, khi người Pháp lấp quãng sông ấy, dựng thành con phố thì phố đó đã được đặt tên là phố Nguyễn Siêu. Bây giờ ở số nhà 20, vẫn còn dấu tích trường học, đề Phương Đình, được dùng làm nơi thờ tự Nguyễn Siêu.

Chân dung Nguyễn Văn Siêu (1799-1872)

Hết phố Nguyễn Siêu dòng sông chạy ngược lên, bị lấp thành phố Ngõ Gạch. Từ đó mới ngoặt vào cắt đôi phố Hàng Đường, người xưa đã phải dựng một cái cầu bắc qua để nối bên này Hàng Đường với bên kia Hàng Đường. Ở trên đầu cầu còn có tượng ông phật Di Lặc suốt ngày đêm ngồi cười. Chính là Cầu Đông đấy. Chợ Cầu Đông nổi tiếng trong câu ca dao:

Bà già đi chợ cầu Đông
Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quả phán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn

Thế rồi sông chảy tiếp sang bên kia đường là phố Hàng Cá. Cà phê chỗ Hàng Cá rất ngon. Từ đây, sông mới ngoặt một cái ra Hàng Lược. Ở chỗ ấy người ta xây một cái cống, vì nó chéo, thành ra mới có tên phố Cống Chéo hàng Lược. Chỗ mà bây giờ người ta hay nhắc đến phiên chợ hoa ngày Tết, là ở chính đấy.

Tiếp theo, sông chảy lên phố Hàng Cót, rồi đổ vào đường Phan Đình Phùng, với Thành Cửa Bắc như tôi vừa nói ở trên. Từ đây, sông chạy qua Cửa Bắc, lên ô Thụy Khuê chỗ xưởng phim truyện, số nhà 4.

Vì là cửa lớn đầu tiên bị bịt mất rồi, nên từ thời cuối thế kỷ 19, người ta truyền nhau rằng sông Tô Lịch được bắt nguồn từ chỗ Thụy Khuê đường Bưởi, lấy nước Hồ Tây và uốn lượn qua núi Sưa ở Bách Thảo ngày nay. Nhầm tai hại là ở đó!

Trong vườn Bách Thảo hiện vẫn có dấu tích của sông Tô Lịch, nhưng nó chỉ còn là cái rãnh con con thôi. Từ đây, sông Tô ngược lên vùng Bưởi. Quãng sông này có di tích đáng chú ý là đền thờ thần Đồng Cổ, hay còn gọi là thần Trống Đồng, một vị thần cổ xưa xuất hiện từ thời Vua Hùng.

Sách Việt Điện u linh có chép: Năm 1028, trước ngày Lý Thái Tổ mất, thái tử là Lý Phật Mã mộng thấy thần Đồng Cổ báo rằng: "Ba vị tước vương mưu làm phản!". Do có phòng bị, lại được các tướng Lê Phụng Hiểu, Lê Nhân Nghĩa giúp, nên thái tử đã dẹp được cuộc nổi loạn này. Mười ngày sau khi lên ngôi, Phật Mã (tức vua Lý Thái Tông) cho xây ngay đền thờ thần Đồng Cổ ở nơi gặp nhau của sông Thiên Phù và sông Tô Lịch, thuộc làng Đông Xã nội thành Đại La. Bây giờ nó vẫn ở đấy, tại số 353 đường Thụy Khuê.

Đền Đồng Cổ có hội thề rất ý nghĩa với lời thề Trung Hiếu: "Làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, thần minh tru diệt". Lời thề độc lắm, bách quan văn võ đều phải thề như thế.

Từ Thụy Khuê, sông mới chảy ngược lên trên Bưởi và ngoặt một cái nối với làng Hồ Khẩu. Hồ này tức là Hồ Tây còn Khẩu là cửa. Đó chính là cửa sông còn lại của Tô Lịch ngày xưa.


Bản đồ Hà Nội giai đoạn 1428 - 1527 rút từ tài liệu "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" của Đỗ Xuân Sơn.

Sau 1889, khi chính thức bị bít 2 cửa sông lại, Tô Lịch coi như trở thành dòng sông chết. Nó báo hiệu một thời kỳ suy vong của thành Hà Nội, của cả đất nước Việt Nam khi đó.

Nếu cống hóa sông Tô Lịch, mọi thứ ở Hà Nội này có thể sẽ chẳng còn nguồn cội nữa. Nên tôi mới nói, không phải mắng ông bí thư quận ủy kia vì mỗi người một quan điểm, nhưng không thể giết chết sông Tô Lịch! Kể cả sau này, ai "lăm le" giết chết dòng sông này, thì không còn mặt mũi nào nhìn vào tổ tiên ngàn đời!

Trong lịch sử 2000 năm của sông Tô Lịch, không thể không nhắc tới ngôi chùa cổ nhất Hà Nội và ngôi đền cũng cổ nhất.

Đầu tiên, phải khẳng định rằng cặp biểu tưởng núi Nùng sông Tô mang đến cho Hà Nội cơ hội tìm hiểu về cội nguồn của sự tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh, tổ tiên. Xét trên một khía cạnh nào đó, đây là phương cách giúp người ta sống và tồn tại một cách có ý nghĩa và tự hào. Vây, ta cần biết cơ sở tôn giáo hay tín ngưỡng nào xuất hiện trước nhất ở Hà Nội? Ở trường hợp này, cần phải nói rõ hơn là chùa nào cổ nhất ở Hà Nội đến nay còn lưu giữ được?

Đó là chùa Trấn Quốc.


Chùa Trấn Quốc ngày nay.

Trước khi mang tên Trấn Quốc vào thế kỷ 19 thì chùa này đã có tên là chùa An Quốc, vào thế kỷ 15. Trước giai đoạn này khoảng 1000 năm, vào thời Lý Nam Đế, năm 544, khi ông ấy xây thành ven sông Tô Lịch, tòa thành đó có tên là Tô Lịch Giang thành, nằm ngay bờ con sông Tô Lịch.

Năm 546, dũng tướng Phạm Tu, bây giờ đóng quân ở quê hương là Văn Điển, chỗ sông Tô nối với sông Nhuệ, đã xuôi theo dòng sông, hành binh đến Tô Lịch Giang thành, đánh nhau với quân Lương xâm lược để bảo vệ thành và hy sinh ở đó. Hành trình từ đầu nguồn đến cửa sông Tô đánh giặc của Phạm Tu trở thành câu chuyện cực kỳ bi tráng trong lịch sử giữ nước của nhà nước Vạn Xuân non trẻ.

Lý Nam Đế trước khi qua đời đã kịp để lại cho hậu thế những công trình lớn ở ngay bên bờ sông Tô Lịch. Công trình chính trị là Đài Vạn Xuân, nơi tụ hội trăm quan, công trình quân sự là Tô Lịch Giang thành và công trình văn hóa là chùa Khai Quốc - tức là chùa mở nước, cùng một lúc với thời điểm đặt ra nước Vạn Xuân.

Chùa Khai Quốc ở thế kỷ thứ 6, sau này chính là nền đất để hình thành nên ngôi chùa An Quốc ở thế kỷ 15. Ba ngôi chùa ở 3 thời đại khác nhau, được tôn tạo trên cùng một vị trí, tất cả đều liên quan đến Quốc cả: Khai Quốc, An Quốc, Trấn Quốc - ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội ngày nay.

Cống mương hóa sông Tô Lịch, là chôn vùi luôn gốc tích của cơ sở tôn giáo cổ xưa nhất Hà Nội này.

Còn ngôi đền cổ nhất Hà Nội thì sao? Đó là đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ. Long Đỗ như đã nói đó, là Rốn Rồng.


Đền Bạch Mã xưa.

Nếu như chùa Khai Quốc có niên đại từ quãng năm 544 thì đền Bạch Mã có niên đại chắc chắn vào năm 866 (thế kỷ IX). Còn trước đó, nó ra đời từ một hành động tôi cho là rất "fair-play" của Cao Biền.

Cao Biền làm Tiết Độ sứ ở Tĩnh Hải quân (một tên gọi của Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc) cất công đắp thành Đại La, lấy núi Long Đỗ làm trung tâm. Nhìn từ núi Long Đỗ về phía đông, Tiết Độ sứ chọn khu vực Cầu Đông của sông Tô Lịch để mở cửa thành. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông, chợt thấy lòng sông có chỗ mây mù tối tăm, thoáng bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, lấy bùa ra trấn yểm.

Chẳng dè, ngay đêm đó, thần Long Đỗ sai mưa gió sấm sét đánh xuống dữ dội. Sáng ra xem, Cao Biền thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Mọi bùa yểm lúc đó như Việt Điện u linh chép: nát vụn ra như cám.

Cao Biền lấy làm sợ hãi, biết là mình đã thua thần nước Nam, liền nói một câu vẫn còn được ghi rõ trong Việt Điện u linh: "Đất này còn lắm thần linh, ta không thắng được, tất có ngày bị thần đánh bại." Sau câu nói đó, bèn cho lập đền thờ ở ngay chỗ ấy để phụng thờ Long Đỗ thần quân.

Đến thời Đinh Tiên Hoàng, đền thờ thần Long Đỗ được dựng lại đúng ở vị trí cũ (ngày hôm nay là số 76 phố Hàng Buồm) và mang tên Bạch Mã.

Thế kỷ thứ 11, Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi Đại La thành Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó, cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa. Vua bèn nhân đó, phong thần Long Đỗ làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần.

Bên trong Đền Bạch Mã. Nguồn trích dẫn: Báo Kiến Thức

Cống mương hóa con sông Tô Lịch, là điều mà Cao Biền không làm nổi và không dám làm trong đời. Tục truyền rằng, trận thua khiến Cao Biền tâm phục khẩu phục mà lập ra đền thờ thần Long Đỗ là lần thua duy nhất trong đời của tay phù thủy Cao Biền.

Mọi dòng sông đều có vận mệnh của nó. Nhìn vào từng giai đoạn lịch sử suốt 2000 năm, thế kỷ thứ 10 - 11 - 12 có thể coi là lúc mà sông Tô Lịch ở vào giai đoạn hào hoa, huy hoàng, rực rỡ. Giai đoạn mà người kinh thành nói riêng, người Việt nói chung ký thác cả đời sống văn hóa tinh thần, đời sống kinh tế, đời sống quân sự vào dòng sông Tô.

Thời kỳ này có một ngôi làng điển hình của Hà Nội dựa vào dòng sông Tô mà hình thành và phát triển. Đó là làng Láng, gắn với di tích Chùa Láng và nghề trồng húng Láng nổi danh.

Cắt nghĩa tên làng này mới thấy được vẻ đẹp của dòng sông Tô Lịch.

Láng là tên nôm của Hương Yên Lãng trong sử sách, hay An Lãng, gồm Láng Thượng, Láng Hạ, Láng Trung. Yên hay An đều có nghĩa là lặng, ổn định. Còn Lãng ở đây có nhiều nghĩa, vừa là sóng (phong bình lãng tĩnh - gió yên sóng lặng), vừa là sáng, rực rỡ (thiên sắc thanh lãng - màu trời trong xanh).

Ở nét nghĩa nào thì tên ngôi làng này cũng đều mô tả trọn vẹn vẻ đẹp của nó là bình yên, đẹp đẽ, sáng trong, rực rỡ.

Người dân làng Láng còn cắt nghĩa cho tên làng mình rất thú vị. Vì dòng sông Tô Lịch nước vốn trong xanh, dân làng Láng thuần nông chuyên múc nước sông Tô tưới rau trên đồng dưới bãi.

Đêm trăng sáng, lấy một gàu nước mà hắt xuống thế này. Lênh láng! Là Láng đấy. Dồi dào và trong sáng. Tên làng đặt cũng từ vẻ đẹp của dòng sông là thế.

Làng Láng có ông bà Từ Vinh và Tằng Thị Loan sinh ra một người con trai, là Từ Đạo Hạnh. Đạo sĩ Từ Vinh làm quan trong triều, nhưng hay dùng phép thuật ngoài đời, có lúc còn quấy nhiễu nhà Diên Đình Hầu, mà bị pháp sư Đại Điên ở Dịch Vọng dùng phép thuật chém chết. Gia cảnh ly tán, Từ Đạo Hạnh đi tu ở chùa Thầy. Thậm chí, truyền thuyết kể Từ Đạo Hạnh sang tận cả Tây Trúc để học pháp, rồi trở về với phép thuật tinh thông. Nhớ mối thù giết cha, Từ Đạo Hạnh hóa ra cây gậy trôi ngược sông Tô Lịch đến chỗ Đại Điên, y ra xem liền bị gậy vụt chết. Nay còn có địa danh ngõ Vụt ở làng Yên Hòa!

Sau này, Từ Đạo Hạnh dùng phép thuật đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu, em vua Lý Nhân Tông. Năm 1128, con Sùng Hiền Hầu lên ngôi báu, lấy hiệu là Lý Thần Tông. Tương truyền, sau khi lên ngôi, Lý Thần Tông đã cho xây Chùa Láng để thờ Từ Đạo Hạnh. Chùa có tên chữ là Chiêu Thiền tự, một danh lam của Thăng Long.

Hình ảnh chùa Láng thời xưa.

Trong hậu cung Chùa Láng ngày nay vẫn còn có tượng Từ Đạo Hạnh làm bằng mây đan, sơn then đặc sắc. Sân chùa có lầu bát giác, đường dẫn vào chùa có hai hàng cây muỗm cổ thụ. Xưa kia chùa còn có những cây đại thụ cổ kính hàng ngàn tuổi. Bên cạnh chùa Láng được coi là trung tâm đã hình thành cả một tiểu vùng văn hóa Láng với nhiều đền miếu, chùa chiền, trải dọc theo bờ sông Tô Lịch. Từ cuối triều Lê, có người đến thăm Chùa Láng đã ghi lại bài thơ truyền qua mấy thế kỷ:

Đệ nhất tùng lâm có phải đây?

Có ai cho vái hỏi thăm Thầy

Ngai vàng hai kiếp rồi đâu tá?

Trơ trọi thông già đứng réo mây!

Không chỉ riêng Láng, cả một vùng làng từ nghề nông, nghề giấy, nghề dệt lụa, nghề thương nghiệp… của đất Thăng Long đều là trông vào nước sông Tô Lịch. Bây giờ nếu lấp hết sông đi, thử hỏi những làng nghề, phố nghề của Hà Nội biết tìm nguồn cội ở đâu?