
1. Khái niệm cơ bản về Gia phả
Gia phả hay gia phổ, tộc phả... là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, ngày giỗ, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ và mộ phần của một gia đình lớn hay một dòng họ. Với nhiều dòng họ, Gia phả còn là quyển sách quý của dòng họ ghi lại xuất xứ, quê hương cũng như những lời giáo huấn của các bậc Tiên Tổ với các hậu duệ của mình
Gia phả tuy không chép đủ mọi chi tiết nhưng nó cung cấp cho ta biết từ bậc Ông Bà, Cha Mẹ đến con cháu một giai đọan để có đủ tài liệu về tiểu sử lý lịch của mỗi cá nhân: ngày tháng năm sinh, nơi sinh (sinh quán) sống chết, nghề nghiệp, địa chỉ (trú quán)...Ngoài ra còn nhiều vấn đề như: Học vấn, thành tích.. của mỗi người trong gia đình đó đã đóng góp liên quan đến xã hội đến sự hưng vong của Gia đình, Tổ tiên, Dân tộc và Quốc gia...Ảnh hưởng chung đến các sinh hoạt kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán trong xã hội...
Tại Việt Nam, gia phả sơ giản ghi chép tên cúng cơm, ngày giỗ và địa điểm an táng của ông cha. Theo các nhà sử học phỏng đoán thì gia phả đã xuất hiện từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ, hoặc gần hơn tức là từ thời Lý Nam Đế (khoảng nǎm 476-545). Nhưng phải đến thời nhà Lý, nhà Trần mới xuất hiện những cuốn tộc phả, thế phả (ghi cả thế thứ, tông tích toàn họ), phả ký (ghi lại hành trạng, sự nghiệp của tổ tiên).
Người Việt chúng ta đã lâu đời bị ảnh hưởng nền văn hóa Trung Hoa sâu đậm nên việc lập Gia phả xa hơn nữa là Tộc phả để biết Tổ tiên Dòng tộc, họ hàng anh em bà con xa gần để còn nhận biết nhau tránh cho anh em con cháu khỏi cưới hỏi lẫn nhau và tránh được nhiều điều đáng tiếc trong Gia tộc.
Quan trọng hơn nữa để mọi thành viên trong Gia đình Dòng tộc biết đến mồ mả Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ...Để tỏ lòng hiếu nghĩa, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục, hương khói cúng giỗ, cầu hồn, xây đắp sửa sang mồ mả hàng năm...
Vậy Gia phả là quyển sách, quyển tập ghi chép tên tuổi, kỷ sự (tiểu sử thu gọn), ghi ngày sanh, ngày tử, vị trí phần mộ và ngày lập mộ (đã chết)…của từng người trong họ, theo thứ tự các đời.
Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh định nghĩa gia phả là: “Sách ghi thế hệ trong họ và lịch sử tổ tiên”.
2. Vai tròTrưởng Tộc với Gia phả
Việt Nam cũng như các nước ở Đông Nam Á Châu thường theo chế độ Phụ hệ, người Nam giới nắm vị thế cao nhất trong gia đình, dòng họ là rường cột của Gia đình, Dòng tộc có trách nhiệm gánh vác việc Gia đình, dòng họ. Trong một Dòng tộc thì phải có một Trưởng tộc để lo điều hành mọi việc trong Gia đình, Dòng tộc: Quản trị tài sản và bất động sản... gọi chung là của Hương hỏa dòng họ. Hương hỏa gồm có ruộng đất nhà cửa và kim ngân mà Tổ tiên để lại cho con cháu từ đời này đến đời khác để dùng vào việc duy trì hoạt động của Dòng họ trong mọi hoàn cảnh. Liên quan đến Tộc phả của dòng họ thì mỗi thế hệ Trưởng tộc đang giữ Tộc phả phải ghi lại tất cả những cảm nhận của mình về cuộc sống ở những đọan đời khác nhau trong suốt thời gian mà mình chịu trách nhiệm. Với những thành công của con cháu, đồng thời kèm một số hình ảnh để các thế hệ sau có thể thấy được các sinh hoạt của các thế hệ trước đã làm... Người Trưởng tộc được nối tiếp từ đời này đến đời khác, thưòng được giao cho người con trai Trưởng nam (con trai đầu) Ông, Bà gọi là cháu Đích tôn (cháu Nội trai của con Trưởng nam) nếu bất khả thi có thể chọn con trai Trưởng nam của con trai kế (Thứ nam) hoặc trong Dòng tộc chọn một người có khả năng và điều kiên thích hợp.
Trưởng Nam và cháu Đích Tôn có bổn phận gánh vác bảo tồn Phả Gia.
Sau Trưởng tộc là các Trưởng gia có nhiệm vụ góp công sức, tài chánh... Cùng chung với Trưởng tộc để điều hành mọi công việc trong Dòng tộc. Lập sổ Gia phả (Tông chi phả) riêng cho Gia đình mình một cách đầy đủ và chi tiết cung cấp cho Trưởng tộc để lập thành một Gia phả lớn (Tộc phả) cho Dòng tộc.
3. Nội dung chính của một cuốn Gia phả hoàn chỉnh.
Gia phả được coi là hoàn chỉnh trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ ràng, chữ nghĩa chân phương có ghi rõ tên người sao lục, biên soạn thuộc đời thứ mấy, năm nào, triều vua nào, căn cứ vào bản nào, tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng. Đầu gia phả có lời tựa ghi được nguồn gốc xuất xứ của Thủy tổ có cứ liệu thành văn hay truyền ngôn.
Mở đầu là Thuỷ tổ, lần lượt đến tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh.
Đối với tiền nhân có các mục sau đây:
Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
Con trai thứ mấy của ông nào? bà nào?
Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).
Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?).
Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị gì? năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài.
Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất..
Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên.
Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai, mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng...
Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền... đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.
Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các bậc huynh trưởng các họ, đang chăm lo công việc phổ biến và tục biên gia phả dành cho con cháu đời sau
4. Kết cấu Gia phả hoàn chỉnh.
Chính phả: có phả ký, phả hệ và phả đồ.
Ngoại phả: Ghi nhà thờ tổ, việc cúng bái, văn khấn, ghi khu mộ, ghi danh sách học vị các thành viên đỗ đạt, ghi tiểu sử một số thành viên nổi bật, ghi quan hệ hôn nhân cưới gả với dòng họ nào….
Phụ khảo: ghi địa chí xóm ấp, đình miếu, chợ búa, bến đò….
Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng. Phải công phu, nghiêm túc trong việc dựng phả. Gia phả là tư liệu quí giá cho dòng họ, nhà sử học, dân tộc học.
5. Gia phả - tài sản tinh thần thiêng liêng của dòng họ và đất nước.
1. Gia phả cho con cháu biết được dòng họ mình xuất phát từ đâu, biết dược danh tính, tư chất cũng như sự nghiệp, công lao cũng như những di huấn của Ông cha Tiên Tổ để tự sửa mình sống có trách nhiệm với gia đình, họ hàng, với quê hương và Tổ quốc Việt Nam.
2. Từ việc tìm hiểu và chắp nối Gia phả, nhiều người đã tìm lại dược dòng họ, quê hương gốc của mình. Qua đó lòng tự hào của gia tộc, của quê hương giúp chúng ta sống có trách nhiệm hơn với cuộc đời.
Trong suốt 2.000 năm lịch sử thăng trầm, hậu duệ nhiều dòng họ (Họ Tô, Họ Lý, Họ Mạc, Họ Lê...) đã phải đổi họ, thậm chí không đổi họ không chỉ 1 lần để trách vạ diệt vong cũng như lý do kinh tế. Nhờ có Gia phả được lưu giữ, nhiều nhánh họ đã tìm về được cội nguồn, biết được Tiên Tổ, bản quán cùng những người trong họ
3. Gia phả dòng họ còn là tài nguyên quốc gia, nơi cung cấp và bổ sung những thông tin, tư liệu lịch sử mà chính sử không ghi đầy đủ cũng như chưa đủ chuẩn xác.
Như chúng ta đã biết, nhiều quyển chính sử Việt Nam kể cả 2 cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (chính biên và tục biên) cũng như nhiều tác phẩm văn học sử Việt Nam khác đã bị quân xâm lược phương Bắc từ nhà Minh, Nguyên đến Thanh tìm mọi cách triệt hạ từ việc tịch thu, đốt phá, cấm lưu trữ và chiếm đoạt mang về nước họ. Vì thế, nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử Việt Nam bị đi vào quên lãng nếu không có những tư liệu thu thập từ các cuốn Gia phả còn lưu giữ được của các dòng họ. Nhất là các cuốn Gia phả của các hoàng tộc, nhà Chúa hay danh gia vọng tộc nổi tiếng khác.
6. Gia Phả Việt Nam qua các thời đại.
Theo các nhà sử học phỏng đoán thì gia phả Việt Nam đã xuất hiện từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ, hoặc gần hơn tức là từ thời Lý Nam Đế (khoảng nǎm 476-545). Nhưng phải đến thời nhà Lý, nhà Trần mới xuất hiện những cuốn tộc phả, thế phả (ghi cả thế thứ, tông tích toàn họ), phả ký (ghi lại hành trạng, sự nghiệp của tổ tiên).
Có thể nói do văn tự là chữ Hán nên chỉ các dòng họ trình độ văn hóa lẫn kinh tế cao mới thiết lập Gia phả cho dòng họ mình. Vì thế, đa phần các cuốn Gia phả xuất hiện trong thời kỳ đầu đều là của các dòng Hoàng tộc, các quan đại thần và các dòng họ có tiếng về văn học...
Gia phả thời phong kiến luôn là bảo vật của Gia đình, dòng họ nên được bảo tồn, ghi chép rất quy củ. Việt Nam vốn là đất nước nhiều biến loạn, nên Gia phả luôn được giữ gìn cẩn thận. Những người thuộc thế hệ 7X, 8X chúng tôi được kể lại chuyện khi giặc hay cướp đến phá làng, việc đầu tiên và duy nhất của ông Trưởng tộc là ôm tráp đựng quyển Gia phả chạy đi trốn. Tiền bạc, nhà cửa có thể mất, thậm chí người có thể chết nhưng Gia phải phải còn. Đã xẩy ra không ít trường hợp Gia phả được cất giấy quá kỹ và bí mật, bí mật đến nỗi chỉ mình ông Trưởng tộc biết nên chẳng may ông Trưởng tộc có mệnh hệ nào thì Gia phả theo ông mà đi mãi gây nên nỗi buồn, ân hận cho cả một dòng họ.
7. Kết luận.
Gia phả xét thực tiễn về nội dung và ý nghĩa quan trọng được kiểm chứng qua cả ngàn năm lịch sử của dân tộc, là vốn quý và thiêng liêng không chỉ của mỗi dòng họ. Vì thế, ta hoàn toàn hiểu dược tại sao trong nhiều năm lại đây, việc dịch thuật, phổ biến và viết tiếp cũng như viết Gia phả mới cho các dòng họ đã thànhmột trào lưu mới phát triển mạnh mẽ. Chúng ta hy vọng những cuốn Gia Phả sẽ ngày càng phát huy tác dụng của mình trong đời sống văn hóa của các thế hệ con người Việt Nam hiện đại...(Còn tiếp)
Tác giả: Tô Lê Cường
(Bài II. Những cuốn Gia Phả tiêu biểu ở Việt Nam).
- HỌ TÔ LONG HỰU ĐÔNG, CẦN ĐƯỚC, TÂY NINH
- HỌ TÔ LANG SƠN, HẠ HOÀ, TỈNH PHÚ THỌ
- Họ Tô Ngọc Kỳ Tân, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
- HỌ TÔ HƯƠNG THỦY, HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH
- HỌ TÔ HIỀN ĐA, CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ
- HỌ TÔ HẢI LỘC, HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA
- Họ Tô Hải Lạng, Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh
- HỌ TÔ ĐÔNG THẠNH, CẦN GIUỘC, TỈNH TÂY NINH
- HỌ TÔ ĐỒNG LOAN, HẠ LANG, XÃ LÝ QUỐC, TỈNH CAO BẰNG
- HỌ TÔ DIỄN NGỌC, DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
- Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
- Lễ báo công truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND đồng chí Tô Quyền
- Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” và nhà thơ Lê Anh Xuân
- Thuỷ Tổ Họ Tô Việt Nam là ai?
- Đất nước và người mẹ trong thơ Tạ Hữu Yên
- ANH HÙNG “MÌN GẠT”
- VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ HIỆN NAY.
- Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?
- BÀI PHÁT BIỂU TẠI LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐÌNH THUẦN LƯƠNG CỦA NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN LAN
- LỚP TRƯỞNG TÔ HIỆP NHỚ VỀ LỚP ĐỆ NHẤT B “ĐẶC BIỆT”



