
Dòng Họ Tô Việt Nam dâng Chúc văn chầu Tổ - Đức Tô Hiến Thành tại Đền Văn Hiến, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội, ngày 10/7/2022 (túc ngày 12/6 Nhâm Dần).
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhiều câu chuyện mang màu sắc huyền thoại đã được thêu dệt và lưu truyền trong dòng Họ Tô Việt Nam. Bài viết này xin được giới thiệu năm câu chuyện trong số các huyền thoại đó.
1. NGƯỜI HỌ TÔ THỜI HÙNG VƯƠNG
Tại đình làng Doãn Thượng, xã Xuân Lâm, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có tấm bia đá kể lại rằng: Đinh Công Bách là Lạc tướng kiệt xuất của Hùng Duệ Vương, tức Hùng Vương thứ 18. Một lần, Đinh Công Bách đem quân về đến trang Ngô Đồng, huyện Bất Bạt, phủ Đà Giang thì trời đã tối nên phải dừng lại đóng quân tại đó. Khoảng canh ba đêm ấy, Tướng quân nằm mơ gặp một ông già đứng bên bờ giếng, tự xưng là Tô Ông và trao tặng một tấm áo gấm. Tô Ông còn báo chuyện nhân duyên và sau này sẽ sinh được Thánh đồng. Hôm sau, theo lời báo mộng, tướng quân tìm đến gia đình Họ Tô và được biết: Người cha (Tô Ông) mất sớm, chỉ còn người mẹ (Tô Bà) và ba cô con gái. Đinh Công Bách đem chuyện chiêm bao thưa lại với Tô Bà, rồi sau đó mang lễ vật đến dạm hỏi và xin cưới người con gái đầu là Tô Thị Nghi, năm ấy mới tròn 17 tuổi.
Mấy năm trôi qua, bà Tô Thị Nghi vẫn chưa sinh con. Nhân chuyến về chịu tang Tô Bà, hai vợ chồng ra bờ giếng năm xưa làm lễ cầu tự. Sau đó phu nhân có thai, rồi sinh được một con trai và đặt tên là Đinh Quang. Vì được Ngọc Hoàng thượng đế sai xuống hạ giới đầu thai, cho nên Đinh Quang có tướng mạo phi phàm và thông tuệ khác thường. Lúc còn nhỏ, Đinh Quang đã là một “thần đồng”, vừa được trăm ngày đã nói năng trôi chảy. Mới ba tuổi đã lớn như đứa trẻ lên mười, làu thông kinh sử, võ nghệ cao cường. được vua Hùng cho tham dự các cuộc bàn luận công việc triều chính. Khi lớn lên, Đinh Quang tài trí hơn người, cùng với cha là tướng giỏi của Hùng Duệ Vương.
Phải chăng ngay từ cuối Thế kỷ thứ 4 TCN đã có người họ Tô trên đất nước ta ?
Nguồn: Sách “Họ Tô Việt Nam”, tr. 19-21.
2. TRẬN CHIẾN TÂM LINH
Tượng thần Long Đỗ - Tô Lịch tại Đền Bạch Mã, số 76 Hàng Buồn, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Theo các tư liệu lịch sử đã thu thập được thì Tô Lịch sinh trưởng vào khoảng thế kỷ thứ 4 SCN ở vùng Long Đỗ hay Tống Bình, tức Thủ đô Hà Nội ngày nay.Tổ tiên của ông cư ngụ ở đó đã lâu đời, dựng nhà bên bờ một con sông nhò. Gia đình ông không giàu lắm, nhưng lấy sự thanh bạch, hòa thuận, hiếu thảo làm trọng, ba đời cùng nhường nhịn mà chung sống với nhau. Thời nhà Tấn đô hộ, gia đình ông được suy tôn là nhà có hiếu và được ban khen. Gặp khi mất mùa đói kém, nhà ông cho cả làng vay thóc và cứu sống được nhiều mạng người. Triều đình lại khen ngợi và nhân đó cho lấy hai chữ Tô Lịch làm tên làng. Ông được cử giữ chức Hiếu liêm, có cờ biểu dương cắm trước cổng làng.Sau khi qua đời, Tô Lịch được phong là “Long đỗ Thần quân Quảng lợi Bạch mã Đại vương”.
Chuyện kể rằng: Năm 822, sau khi dời phủ trị tới bờ dòng sông có nước chảy ngược ở cửa Đông kinh thành, viên quan đô hộ của nhà Đường là Lý Nguyên Hỷ đã cho xây một ngôi đền mới và tôn vinh Tô Lịch làm Thần chủ của cả thành. Khi ngôi đền đã xây xong, một hôm Nguyên Hỷ nằm mơ thấy một người râu mày bạc phơ cưỡi con nai trắng, từ trên không hạ xưống, đến bảo Nguyên Hỷ rằng: Nhờ ơn Sứ quân ủy cho ta làm chủ thành này. Nếu Sứ quân có giáo hóa được cư dân trong thành cho hết lòng hết sức thẳng ngay thì mới sung được nhiệm vụ của quan thủ mục, mới xứng với trách nhiệm của một bậc tuần lương. Nguyên Hỷ bái tạ xin vâng.
Chyện lại kể rằng: Năm 866, viên quan cai trị cáo già kiêm thầy phù thủy cao tay của nhà Đường là Cao Biền cho khởi công xây dựng thành Đại La. Một hôm, khi dạo chơi trên sông, viên quan cai trị đã gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kỳ, tắm ở giữa, cười nói tự nhiên. Biền hỏi họ tên và nhận được câu trả lời: Ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: Nhà ở đâu? Đáp: Nhà ở trong sông này. Dứt lời, người đó vung tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết đó là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch.
Vị thần xuất hiện như muốn báo cho kẻ thống trị ngoại bang biết rằng đất này vốn đã có chủ là người bản địa rồi. Không chịu thừa nhận chân lý và thực tế đó, Cao Biền đã cho lập đàn, niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đêm hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa sầm sập, đất trời u ám, tiếng reo hò kinh thiên, động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro bụi, bay tan trên không. Biền kinh hãi than rằng: “Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ”. Kẻ ngoại lai đại bại đã phải xây đền thờ vị thần bản địa chiến thắng ! Đó chính là ngôi đền Bạch Mã hiện còn đang tọa lạc trên phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ngày nay. Cũng chính viên quan đô hộ nhà Đường đó đã buộc phải phong vị thần chiến thắng là “Đô phủ Thành hoàng Thần quân”.
Chuyện cũng kể rằng: Khi dời đô ra Thăng Long (1010), Lý Thái Tổ nằm mộng thấy một ông lão râu tóc bạc phơ đến bên bệ rồng hô “Vạn tuế !”, chúc mừng nhà vua và nói: Mong muốn Hoàng đồ như thái sơn, bàn thạch, thánh thọ vô cương, trong triều, ngoài quận thái hòa. Tỉnh dậy, Vua bèn sai quan Thái chúc đem rượu tế phong Thần làm “Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương”.
Khi Lý Thái Tổ cho xây một tòa thành mới thì xây lên được đến đâu, tòa thành lại lún sụt đến đó. Vua cho người đến cầu khấn tại đền thờ. Đêm đó, Vua nằm mộng thấy Thần đến chúc mừng, rồi dặn nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành. Hôm sau có con ngựa trắng từ đền bước ra, đi vòng quanh thành cũ từ hướng Đông sang hướng Tây, trở về điểm xuất phát, rồi biến vào đền. Nhà vua y theo lởi Thần, cho đắp thành lũy theo dấu chân Bạch Mã thì thành đứng vững. Lý Thái Tổ sai tạc một con ngựa trắng để thờ và đặt tên đền là Bạch Mã linh từ (Đền thiêng Ngựa Trắng).
Trong năm chiến thắng giặc Nguyên-Mông lần thứ hai (1285), vua Trần Nhân Tông đã gia phong hai chữ “Bảo quốc”. Sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (1288), nhà vua lại gia phong hai chữ “Trấn linh”. Từ năm 1313, cùng với việc vua Trần Anh Tông gia phong hai chữ “Định bang”, thần hiệu đầy đủ của thần Tô Lịch là: “Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương”.
Nhân vật lịch sử được chuyển hóa thành bậc nhân thần này đã được vinh thăng liên tiếp các vị thế và danh hiệu tôn quý, từ chỗ là Thần Thành hoàng của ngôi làng Long Đỗ “Long Đỗ Thần quân Quảng lợi Bạch mã Đại vương” trở thành Thành hoàng của tòa phủ thành Đại La “Đô phủ Thành hoàng Thần quân” rồi đến Thành hoàng của cả quốc gia “Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương”.
Vậy nên:
Ngàn năm Bắc thuộc khắc tên Người
Khuấy nước chọc trời dễ mấy ai
Bóng nước giang đài soi lịch sử
Tống Bình đô phủ tác dương oai.
Nguồn: Sách “Họ Tô Việt Nam”, tr. 43-58.
3. NÀNG TÔ THỊ
Tượng nàng Tô Thị ở Lạng Sơn
Trong hơn chục cuộc chiến tranh liên miên chống giặc ngoại xâm, lớp lớp thanh niên trai tráng Việt Nam đã phải lên đường đánh giặc. Trong số họ, nhiều người ra đi, rồi mãi không về, để lại ở quê nhà những người vợ góa cùng những đứa con côi.
Chuyện kể rằng: Nàng bồng con tiễn chồng lên đường ra trận. Khi đến đỉnh núi cao, nàng dừng chân và nhìn theo bóng dáng người chinh phu đang cùng đồng đội rảo bước tiến thẳng ra nơi biên thùy. Chinh phụ đứng đó chờ chồng, mong ngày, mong tháng chiến binh trở về. Chờ mãi, chờ hoài chẳng thấy chồng đâu, nàng hóa thành tượng đá bồng con, sừng sững trên đỉnh núi cao, giữa ngút ngàn rừng rậm ở nơi xứ Lạng xa xôi.
Không biết từ bao giờ, pho tượng đá đó đươc gọi là “Hòn vọng phu”. Liệu có phải là một sự tình cờ hay không khi người ta còn đặt cho nó cái tên “Nàng Tô Thị”? Ca dao có âu:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Nguồn: Chuyện kể dân gian.
4. NGÔI SAO TÔ HIỆU
Nhà cách nạng Tô Hiệu (1912 - 1944)
Một trong những cán bộ tiền bối của cách mạng Việt Nam là Liệt sỹ Tô Hiệu, người làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang , tỉnh Hưng Yên. Ông bị thực dân Pháp bắt và giam cầm tại nhà tù Sơn La, nơi nổi tiếng là “rừng thiêng, nước độc”. Không khuất phục được Tô Hiệu, bọn thực dân Pháp đã đày người chiến sỹ cách mạng kiên trung ấy vào trong xà lim biệt giam được bao bọc vững chắc bằng tường cao, nhưng lại không có mái che mưa, che nắng.
Ở Sơn La từng lan truyền câu chuyện mang màu sắc huyền thoại như sau: Một đêm nọ, giữa lúc trời mưa sầm sập, sấm chớp ầm ầm, bỗng nhiên một ngôi sao sáng chói từ xà lim bay vút lên trời. Ngay lập tức, mưa tạnh, mây tan, ngôi sao bay lên mỗi lúc một cao hơn, rồi cùng với muôn vàn vì tinh tú khác tạo nên bầu trời quê hương sáng trong vằng vặc. (Ghi theo lời kể của GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam).
Hơn một năm sau ngày Tô Hiệu hy sinh tại nhà tù Sơn La (7-3-1944), cả dân tộc ta đã nhất tề đứng dậy, đánh đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn: Sách“Họ Tô Việt Nam”, tr.258.
5. CÂY ĐA ĐÂU VOI
Lễ khánh thành từ đường cụ Đội, đời thứ 9, chi 2, phái đệ nhị, Họ Tô xã Đông Hoàng, huyện Đông Hưng, Thái Bình
HỌ TÔ XÃ ĐÔNG HOÀNG,
Đó là câu chuyện được lưu truyền trong dòng Họ Tô làng Thượng Tầm (nay là thôn Thái Hòa, xã Đông Hoàng, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Chuyện kể rằng: Sau nhiều đời “độc đinh”, đến đời thứ năm cụ Tô Húy Cẩn vẫn là con một.
Nhờ Thầy địa lý mách bảo, cụ Tô Húy Cẩn đã trồng một cây đa ở phía Đông của đình làng. Được bà con vun đắp, cây đa ngày càng vươn cao, gốc chắc, thân to, tán rộng, tỏa bóng mát ra cả một góc sân đình. Cây đa được mang tên “Cây đa đầu voi” và trở thành biểu tượng thiêng liêng của dòng Họ Tô làng Thượng Tầm. Cụ Tô Huý Cẩn, lúc bấy giờ đã là Xã trưởng, còn dầy công tu bổ ngôi chùa ở bên cạnh.
Kể từ đó, dòng Họ Tô làng Thượng Tầm thoát khỏi cảnh độc đinh, liên tục phát triển cho đến nay đã là đời thứ 18 và trở thành một trong những dòng họ lớn ở trong làng, trong xã.
Năm 1950, giặc Pháp tràn đến Thái Bình. Sau một trận chiến đấu ác liệt, thi hài các liệt sỹ được đưa về đây. Với sự đồng ý của bà con Họ Tô, chính quyền xã đã cho chặt hạ cây đa hơn 300 tuổi để lấy gỗ đóng quan tài mai táng những người đã anh dũng hy sinh vì dân, vì nước. Một cây đa khác đã được trồng thay thế vào đúng vị trí đó. Ngày nay, cây đa cao to, cành lá xum xuê ấy vẫn tọa lạc phía trước Trường Trung học cơ sở của xã Đông Hoàng. Sự kiện giầu ý nghĩa này đã được ghi đậm nét trong cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Đông Hoàng (1930-2015)”.
Nguồn: Gia phả Họ Tô Thượng Tầm, tr.60.
Người viết những dòng trên đây tin chắc rằng nhiều chi họ khác cũng có những câu chuyện huyền thoại của mình. Sự tập hợp những huyền thoại đó có thể sẽ cung cấp một bức phác họa nêu lên trí tưởng tượng, lòng mong muốn, niềm ước ao của bà con họ nhà về các vị thần linh, các nhân vật siêu phàm, có những hành động kỳ vỹ, gắn ít nhiều với các sự kiện lịch sử. Vì vậy, chúng tôi xin đề nghị các chi họ nào có các câu chuyện như thế thì gửi về cho Ban biên tập Cổng Thông tin điện tử Họ Tô Việt Nam (www. hotovietnam.org).
Giáo sư, Tiến sĩ: Tô Bá Trọng
- Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Hội nghị Thường vụ Quân ủy Trung ương
- Tổng Bí thư Tô Lâm: Các đồng chí là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
- Người truyền đam mê Soọng cô cho thế hệ trẻ
- ĐBQH ủng hộ thành lập Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật ngoài ngân sách
- Tổng Bí thư Tô Lâm: Tinh thần “Điện Biên Phủ” phải tiếp tục được thắp lên như một mệnh lệnh phát triển
- Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Điểu
- Có “móc ngoặc” của một số cán bộ với hàng giả, hàng nhái, đại biểu đề nghị kiểm tra cơ quan quản lý
- Tổng Bí thư: "Giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội"
- Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
- Ngành Kiểm sát nhân dân góp phần kiến tạo xã hội kỷ cương, công bằng, dân chủ, văn minh
- Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
- Lễ báo công truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND đồng chí Tô Quyền
- Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” và nhà thơ Lê Anh Xuân
- Thuỷ Tổ Họ Tô Việt Nam là ai?
- Đất nước và người mẹ trong thơ Tạ Hữu Yên
- ANH HÙNG “MÌN GẠT”
- VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ HIỆN NAY.
- Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?
- BÀI PHÁT BIỂU TẠI LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐÌNH THUẦN LƯƠNG CỦA NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN LAN
- LỚP TRƯỞNG TÔ HIỆP NHỚ VỀ LỚP ĐỆ NHẤT B “ĐẶC BIỆT”



