ÔNG TÔ XUÂN DÂN – NGƯỜI SUỐT ĐỜI TẬN TỤY VỚI NGHỀ, TẬN TÂM VỚI HỌC TRÒ VÀ ĐỒNG NGHIỆP


“Cuộc đời này có nhiều niềm vui khác nhau, nhưng với trải nghiệm của bản thân, tôi thấy, khi ta được làm việc, được cống hiến thì đó là lúc ta có được niềm vui giản dị nhất, chân thật nhất. Niềm vui ấy được duy trì, lắng đọng, hòa vào nhịp đập của con tim… và đó chính là hạnh phúc đích thực của cuộc sống vì nó bền vững, dài lâu” đó chính là những tâm sự của nhà khoa học, nhà giáo, GS.TS Tô Xuân Dân nguyên Chủ nhiệm Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân), nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội

           Sinh ra trongkhói lửa nhưng đầy tình yêu thương của gia đình,GS.TS.Tô Xuân Dân sinh ngày 30 Tết Nguyên Đán năm 1947 trongmột gia đình nông dân tại thôn Khánh Vân, xã Khánh Hà, huyện Thường Tín, TP Hà Nội. Cha ông là cụ Tô Xuân Lãm, am hiểu nho học và biết chữ quốc ngữ, có đóng góp đáng kể trong việc cất dấu cán bộ Việt Minh thời kỳ chống Pháp. Bà cụ sinh ra ông kể rằng, khi đang gói bánh chưng Tết thì bà trở dạ, một lúc sau đã có tiếng khóc oe oe chào đời. Ba ngày sau, giặc Pháp vào làng truy bắt cán bộ Việt Minh, bà cụ đưa con trai còn đỏ hỏn trốn trong hầm dưới lũy tre. Chỉ một tiếng khóc nhỏ là bị lộ, nhưng may thay, mọi việc đã qua đi yên ổn, dù rằng bọn giặc đốt một ngôi nhà gần đó. Khi cậu Dân 5 tuổi, ở nhà một mình, một toán lính xông vào quát tháo “Việt Minh có chạy qua đây không”, cậu bé chỉ lắc đầu. Lúc sau có nhiều tiếng súng nổ ngoài xóm: Người anh họ Tô Xuân Uyên là du kích bị giặc bắn chết. Hình ảnh đau thương đó không bao giờ phai nhạt trong cậu!

          Dù chiến tranh, loạn lạc nhưng cậu Dân được bố mẹ cho theo học một lớp với nhiều bậc học khác nhau. Hòa bình về, trường cấp I được mở, cậu được học cùng lớp với các anh hơn 3 - 4 tuổi. Cấp II và III cậu phải ra học trường Huyện, ngày đi bộ 12 cây số, điều đó cả làng đều biết.

          Năm 1964, cậu Dân thi vào Đại học Bách Khoa nhưng lại nhận được giấy báo nhập học Đại học Kinh tế - Tài chính (sau này là Đại học Kinh tế Quốc dân - KTQD). Cậu nghĩ ngợi đôi chút rồi  nhận ra rằng, lĩnh vực nào Nhà nước cần thì mình sẽ học. Cậu là sinh viên nhỏ tuổi nhất lớp. Anh lớp trưởng là bộ đội chuyển ngành, có số tuổi gấp đôi tuổi cậu. Học chuyên ngành Thống kê, cần nhiều kiến thức Toán, các anh chị lớn tuổi đều gặp khó khăn, cậu dành nhiều thời gian cùng học với họ. Cậu là cán sự môn học, cùng mọi người vượt khó nơi sơ tán, không để phải thi lại. Cậu được Khoa giao nhiệm vụ báo cáo kinh nghiệm học tậpcho các lớp khóa sau. Phải chăng đây là khởi đầu cho niềm đam mê trên bục giảng sau này!                                                       

          Bước khởi đầu thuận lợi nhưng không ít thử thách

          Được giữ lại Trường, 21 tuổi ông Dân trở thành giảng viên (GV) Đại học, làm trợ giảng một học kỳ rồi lên bục giảng. Ông luôn quan tâm đến nhóm học trò lớn tuổi vì họ là cán bộ đi học. Ông đi nghe các thầy có kinh nghiệm để học hỏi và đọc nhiều sách báo để hiểu thực tiễn.

          Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đến thời kỳ ác liệt. Lần ấy, chỉ sau 3 ngày làm đám cưới, ông đi khám sức khỏe và 20 ngày sau, ngày 06/09/1971 ông cùng 04 GV và gần 100 SV của Trường nhập ngũ. Ở trong quân ngũ hơn 4 năm (gần 1 năm ở chiến trường), ông tâm sự: “Mấy năm trong quân ngũ, được học và hành nhiều việc có ích hơn một khóa Đại học, khi trở về nguyên vẹn, mình tâm niệm là hãy cống hiến nhiều nhất cho cuộc sống”. Đoàn 6971 (với gần 100 GV Đại học cùng nhập ngũ) khi gặp nhau, ông đọc lại mấy câu thơ về bạn đồng ngũ:

          Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ,

           Dưới đáy sông ấy, bạn tôi nằm

          Hóa tuổi đôi mươi thành sông nước   ,            

          Giữ yên bờ cõi mãi ngàn năm” !

          Trở về Trường Đại học KTQD làm GV khoa Thống kê, năm 1977 ông được Nhà trường biệt phái làm GV cho Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh. Sinh viên mấy lớp ông giảng phần lớn học dở dang ngành Luật trước đây, ông đã để lại cho họ những ấn tượng sâu đậm về một GV trẻ đã từng là một anh bộ đội hiền khô, với cách nói dung dị, ấm áp và một tâm hồn rộng mở vì học trò.

Năm 1979 được dự thi tuyển NCS, với quyết tâm của người lính cụ Hồ, ông đã thi đạt kết quả cao nhất trong gần 200 ứng viên khối kinh tế và sang học ở Đại học Kinh tế Berlin. Ông đã hoàn thành Luận án Tiến sĩ Kinh tế với mức xuất sắc và về nước trước thời hạn 6 tháng.

          Khi Nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa, GS.Nguyễn Pháp, nguyên Hiệu trưởng Đại học KTQD, cùng TS.Tô Xuân Dân xây dựng chương trình và đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý Kinh tế đối ngoại ở nhiều tỉnh, từ Quảng Ninh đến Tây Nguyên, Nam Bộ... góp phần khắc phục những bỡ ngỡ của cán bộ lúc đó.

          Với kết quả trên, năm 1992 Đại học KTQD mở chuyên ngành đào tạo KTĐN, riêng hệ tại chức đã phát triển khá mạnh. Khi Bộ GD&ĐT cho phép thành lập Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, TS.Tô Xuân Dân là người sáng lập và Chủ nhiệm Khoa đầu tiên. Khoa có 2 chuyên ngành Kinh tế quốc tế và Quản trị Kinh doanh quốc tế. Mấy năm sau, 2 chuyên ngành này cũng được xây dựng và phát triển ở một số trường Đại học, môn Kinh tế quốc tế còn là môn học bổ trợ cho nhiều ngành đào tạo khác. Ông trực tiếp đào tạo GV về môn học đó cho các Trường Đại học Thương mại, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính… cũng như đào tạo hàng chục GV tại Đại học KTQD. Ông là chủ biên Giáo trình Kinh tế học quốc tế từ 1995, Giáo trình Chính sách KTĐN, Giáo trình Đàm phán Hợp đồng kinh doanh quốc tế, đồng chủ biên Giáo trình Quản trị Dự án đầu tư quốc tế và DN có vốn nước ngoài. Trong 5 - 6 năm, ông cùng tập thể GV xây dựng thành công bộ Giáo trình cho các môn học thuộc 2 chuyên ngành nói trên.

          Luôn gắn kết giảng dạy với nghiên cứu khoa học

          Là giảng viên trẻ, mỗi năm TS.Tô Xuân Dân dành vài tháng đi nghiên cứu thực tiễn. Năm 1978 ông đã chỉ đạo 20 sinh viên năm 4 tổ chức điều tra tại 7 HTX nông nghiệp để lấy số liệu sơ cấp cho việc lập Bảng cân đối liên ngành sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn huyện Thường Tín. Kết quả nghiên cứu được báo cáo tại Hội nghị KH Trường và báo cáo Vụ Cân đối, Tổng cụcThống kê.

TS.Tô Xuân Dân sử dụng công cụ Thống kê học để tham gia nhiều nghiên cứu. Năm 1987 ông làm Thư ký Đề tài Nhà nước “Luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên”, đã đi khảo sát nhiều đợt khắp các tỉnh Tây Nguyên.

          Năm 1989 ông là Thư ký Đề tài của Đại học KTQD về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) Việt Nam đến năm 2000 do Tiểu ban Chiến lược TW Đảng giao. Sau đó, ông được cử làm Thành viên Tổ Biên tập chiến lược của TW Đảng, Tổ trưởng là đồng chí Phan Văn Khải, lúc đó là Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước. Tổ Biên tập Chiến lược TW làm việc trong gần 2 năm, được trao đổi  ý kiến với nhiều chuyên gia đầu ngành các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học và công nghệ, an ninh quốc phòng, văn hóa - xã hội, đi khảo sát cả ở ngoài nước: Nghiên cứu chính sách phát triển của một số NICs châu Á với sự  hỗ  trợcủa Quỹ Ford và của GS Đại học Havard.

TBT Đỗ Mười gặp mặt Tổ biên tập Chiến lược TW sau Đại hội VII của Đảng (1991).Bên trái TBT Đỗ Mười là GS.Vũ Đình Cự, TS. Tô Xuân Dân và T.S Nguyễn Thành Bang

          Tổ biên tập chiến lược TW đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và còn giúp cho các Thành viên hiểu biết hơn về nhiều vấn đề chính sách và chiến lược phát triển của một số quốc gia đáng quan tâm. Điều đó đã giúp rất tốt cho việc xây dựng 2 chuyên ngành đào tạo như đã nói trên.

          Những năm 1990, TS. Tô Xuân Dân tiếp tục thực hiện nhiều Đề tài khoa học về các vấn đề xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển ngành kinh tế, nghiên cứu sâu các loại hình khu chế xuất, khu công nghiệp… Với kinh nghiệm nghiên cứu và phương pháp luận khoa học của mình, Ông đã trực tiếp hướng dẫn hàng chục NCS bảo vệ thành công Luận án TS, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý của nhiều tỉnh , thành phố trong cả nước.

          Với những kết quả trong đào tạo và nghiên cứu như trên, TS.Tô Xuân Dân đã được Hội đồng Học hàm Nhà nước quyết định phong học hàm PGS năm 1992và học hàm GS năm 1996.

          Như cánh chim không mỏi

          Từ thành công 2 chuyên ngành đào tạo mới, như cánh chim không mỏi, GS.TS Tô Xuân Dân vẫn mong muốn được tham gia trực tiếp đề xuất giải pháp phát triển đất nước. Năm 1999, khi Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội, ông nhận nhiệm vụ Phó Viện trưởng và hơn 1 năm sau là Viện trưởng. Ông đã tổ chức triển khai thành công nhiều đề tài, đề án lớn thuộc chủ trương của lãnh đạo Thành ủy và UBND Thành phố như: Chiến lược phát triển KT-XH Thủ đô đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, 2030; Quy hoạch không gian lãnh thổ và Quy hoạch phát triển KT-XH Thủ đô Hà Nội, chi tiết hóa cho từng Quận, Huyện; Giải pháp phát triển dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao trên địa bàn Hà Nội; Chương trình đổi mới các loại hình HTX, phát triển kinh tế ngoại thành, kinh tế tư nhân trên địa bàn và hàng chục đề tài, đề án khác liên quan đến các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, quản lý đô thị, quản lý nhà ở chung cư và nhà ở xã hội, phát triển kinh tế tri thức... Kết quả nghiên cứu đều được báo cáo Thành ủy, HĐND, UBND TP. Hà Nội, tạo cơ sở cho các quyết sách của Thành phố và Trung ương về xây dựng, phát triển KT-XH trên địa bàn Thủ đô.

          Nhiều cán bộ ở Viện nói, điều nổi bật ở GS.TS Tô Xuân Dân là ở phong cách làm việc khách quan, khoa học, sát với thực tiễn, gần gũi với quần chúng, không ngại việc khó, kiên trì tìm ra giải pháp tối ưu. Nhớ lại, năm 2002-2003, lãnh đạo Thành phố Hà Nội chủ trương thí điểm xây dựng mô hình doanh nghiệp (DN) nông nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường. Viện và GS. Dân đã đề xuất xây dựng mô hình DN cổ phần, theo đó các hộ nông dân sẽ cho DN thuê đất, họ vừa trở thành công nhân nông nghiệp, vừa được hưởng hoa lợi từ ruộng đất, áp dụng KH - CN để làm nông nghiệp sạch, có cơ cấu đan xen giữa trồng trọt - chăn nuôi - chế biến - tiêu thụ. Đề án đã được thông qua và đưa vào triển khai tại xã Bắc Vọng, huyện Sóc Sơn. Tuy nhiên,do một số chính sách lúc đó chưa đồng bộ nên việc triển khai bị chậm . Tuy vậy, chỉ 5 năm sau những mô hình tương tự đã triển khai thành công ở nhiều xã trên toàn quốc. Điều đó minh chứng cho tính đúng đắn của mô hình đã đề xuất và thể hiện tâm huyết của những cán bộ khoa học .

          Năm 2004, GS.TS. Tô Xuân Dân được Bộ Khoa học - Công nghệ giao chủ trì Đề tài Nhà nước “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống KT-XH ở Việt Nam”. Kết quả của Đề tài đã giúp cho việc nhìn nhậnmột cách toàn diện các tác động tích cực và tiêu cực có thể xảy ra và làm cơ sở cho việc hoạch định một số chính sách của Đảng và Nhà nước. Kết quả của Đề tài được NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2006 (470 trang).

          Khi nghỉ chế độ, GS.Tô Xuân Dân vẫn tiếp tục tham gia nhiều Đề tài, như: Xây dựng, quy hoạch phát triển KT-XH huyện Đông Anh; Chương trình nghiên cứu nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long; Giải pháp xã hội hóa dịch vụ công ích (phối hợp với Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ); Đồng chủ biên sách “Kinh tế đối ngoại Thăng Long - Hà Nội”;... Mỗi khi về Viện tham dự Hội đồng Khoa học ông đều mang theo một một ý tưởng nghiên cứu mới. Cán bộ của Viện nhận xét: GS.TS Tô Xuân Dân nghỉ chế độ đã mấy năm mà chúng tôi lại thấy GS khỏe ra, ông làm việc vẫn sung sức, vậy ông có bí quyết gì không? Ông cười đôn hậu: Có bí quyết gì đâu! Mình hãy cứ sống như một người bình thường và còn khả năng gì cứ cống hiến là luôn thấy vui,mà đã vui thì khỏe !

                            GS.TS Tô Xuân Dân thăm và làm việctại CHLB Đức (1997)

          Suốt đời tận tuy với nghề, tận tâm với học trò và đồng nghiệp.

          Ông cho biết, khi nghỉ hưu lúc đầu cũng định nghỉ đi thăm bạn bè, người thân vài năm. Có một số lời mời tham gia làm quản lý ở Trường Đại học dân lập nhưng ông xin từ chối. Theo ông, việc quản lý đó nên để cho anh em trẻ làm, mình chỉ nên cống hiến phần tri thức đã “trót tích lũy”...

          Rồi cơ duyên đã đưa ông về Trường ĐH Kinh doanh & Công nghệ Hà Nội. GS.TSTô Xuân Dân xin làm GV, vài tháng sau ông được giao làm Phó Viện trưởng Viện NC quản lý & KD, phụ trách mảngNC khoa học của SV. Ông hướng dẫn các em viết các Đề án kinh doanh lập nghiệp và tạo điều kiện để các em tham dự cuộc thi NCHK của SV toàn quốc. Các năm 2008 - 2011, sinh viên Đại học KD&CN Hà Nội tham dự cuộc thi và nhận được nhiều giải thưởng, từ giải nhì, ba và khuyến khích.

          Sau đó GS.TS Dân lại về Khoa Kinh tế của Trường và tham gia giảng dạy các hệ , cả bậc thạc sỹ, tiến sĩ. Ông giảng dạy các môn:Kinh tế học Marx ứng dụng (cho bậc cao học),Thống kê ứng dụng,  Quản lý Nhà nước về kinh tế, Toàn cầu hóa và HNKTQT, QLNN về  Kinh tế đối ngoại …. Ông không nề hà, sẵn sàng đi giảng Đại học tại chức ở Lào Cai, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tĩnh… Khi ấy, ông tìm cơ hội khảo sát một số xã có SV theo học, như xã Dền Sáng (h.Bát Xát), xã Nậm Khánh (h.Bắc Hà), xã Nậm Cang (h.Sa Pa), xã Tông Lạnh (h.Thuận Châu)… Ở mỗi nơi, ông đều gợi ý cho các SV hiện là Bí thư, Chủ tịch xã về cách làm ăn mới, về cách triển khai 19 tiêu chí Nông thôn mới sao cho có hiệu quả thiết thực, về các dạng mô hình sản xuất - kinh doanh… Những chuyến đi vừa tiếp thêm nhiệt tình cho đội ngũ cán bộ trẻ và cũng là tư liệu cho việc viết sách của ông.

          - Khi chuyên ngành Quản lý kinh tế bậc cao học được mở ở Trường Đại học KD&CN Hà Nội, ông lên lớp các môn chuyển đổi cho học viên (HV) : Môn Toàn cầu hóavà HNKTQT, Phân tích chính sách KT-XH, Quản lý phát triển kinh tế địa phương. Khi lên lớp cho một lớp chuyển đổi, ông thấy lượng HV ít so với danh sách, ông hỏi những khó khăn của họ và trao đổi với học viên:

      Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, khi là Bí thư Thành ủy Hà Nội đến thăm gia đình GS.TS Tô Xuân Dân 2003

          Các Anh, chị đi học như thế này là để làm gì? Mọi người chủ yếu nói xoay quanh mục tiêu trước mắt. Lúc ấy ông mới nói đến một số nội dung Tuyên ngôn GDcủa UNESCO: “Học để cùng chung chung sống,học để tự khẳng định mình”, rồi ông nói cách quản lý thời gian của mối người. Lời nói chân thành đi vào lòng người, đánh thức những điều sâu thẳm, buổi học sau học viên có mặt 100%.

          Không chỉ tận tụy với nghề, tận tâm với người học, GS.TS Tô Xuân Dân còn rất tận tâm với đồng nghiệp. Trong số GV trẻ, có người đang làm NCS, có người muốn viết một cuốn sách nhưng còn thiếu kinh nghiệm. Ai tìm đến, ông đều chia sẻ kinh nghiệm của 50 năm làm việc tận tụy. Có NCS gặp khó khăn trong nghiên cứu, ông dành thời gian đọc kỹ bản thảo, phân tích, đánh giá điểm trùng lặp, điểm có tính mới, đối chiếu với thực tiễn để gợi ý nội dung mới cho Luận án. Với người cần viết sách, ông trao đổi về mục tiêu cuốn sách, các công trình hiện có, cùng tác giả trẻ thiết kế lại đề cương cuốn sách và gợi ý tác giả về những vấn đề thực tiến phù hợp với cuốn sách. Tác giả trẻ đã vượt qua khó khăn, hoàn thành một cuốn sách khá ưng ý và gần đây lại cùng đồng nghiệp bắt tay vào những công trình mới.

          Đồng thời, ông cũng tham gia biên soạn, xuất bản nhiều ấn phẩm, như: “Bối cảnh mới, ngôi trường mới, nhà quản lý giáo dục mới” NXB Đại học quốc gia, Hà Nội 2011; “Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh - Nghề tôi yêu, trường tôi chọn”, NXB ĐH Sư Phạm, Hà Nội, 2013; “Xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam - Tầm nhìn mới, Tổ chức quản lý mới, bước đi mới” NXB NN, Hà Nội, “Hướng dẫn thực hiện theo 19 tiêu chí Nông thôn mới và phát triển nông thôn bền vững”, NXB NN, Hà Nội, 2014; “Cẩm nang bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý và thực thi công vụ cho công chức cấp xã, phường, thị trấn” NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2015; “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho Thanh - Thiếu niên, Nhi đồng” NXB Dân trí, Hà Nội, 2017; “Kinh tế đối ngoại Thăng Long - Hà Nội” NXB Hà Nội, 2018.

          Chia sẻ về công việc viết sách ông nói : “Thực ra mình có viết nhiều đâu. Đây là tích lũy của cả một đời, có cuốn mình cộng tác với bậc thầy để có thêm ý tưởng, có cuốn mời những cây bút trẻ. Cuốn nào cũng có dăm bạn trẻ, mình dựa vào họ, vừa đào tạo họ, cả về kỹ năng và phương pháp luận.Hầu hết những nội dung mà ông đề cập trong ấn phẩm xuất bản đều bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, nhất là khi làm việc ở Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội nên va đập với nhiều vấn đề. Ông suy nghĩ , đất nước bị phân tán nguồn lực thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đến nay tập trung vào xây dựng đất nước thì cùng một lúc phải xử lý rất nhiều vấn đề nên tất yếu có nhiều khó khăn, vướng mắc.

          Bên cạnh đó ông dành nhiều tâm huyết cho các vấn đề về Nông nghiệp - Nông thôn - Nông dân. Ông tâm sự , thoát ly quê hương từ 17 tuổi nhưng đến nơi nào ông cũng có cơ hội tiếp xúc với nông dân và cuộc sống hàng ngày đều dùng sản phẩm từ nông nghiệp, nông thôn. Khi đi làm Chiến lược phát triển Tây Nguyên ông đã được gặp Anh hùng Núp (khi đó Cụ đã hơn 90 tuổi) và nhiều bà con các dân tộc. Nhờ đó, ông cảm nhận được sự chất phác của họ. Ông cho rằng, phải xây dựng Nông nghiệp và Nông thôn hiện đại trên nền tảng của KH - CN, nâng cao đời sống Nông dân ngang hoặc hơn dân cư thành thị.... Đó cũng là những nghĩa vụ, trách nhiệm và sự tri ân của mỗi chúng ta với nông dân, với ông bà tổ tiên.

          Đến nay, khi đã bước vào tuổi xưa nay hiếm GS.TS Tô Xuân Dân luôn cố gắng luyện tập để giữ gìn sức khỏe, ông tâm niệm rằng có sức khỏe mới có thể tiếp tục nghiên cứu, viết sách, giúp đỡ học trò. Có lẽ nỗi niềm ấy chính là suối nguồn hạnh phúc lớn lao và nhiều ý nghĩa của vị giáo sư đáng kính trọn đời tâm huyết vì sự nghiệp khoa học, giáo dục, hướng trọn tấm lòng xây dựng quê hương đất nước./.                           

          BTV Bùi Nguyên