
Làng Dứa, Hồng Quang, Nam Trực trong diện mạo nông thôn mới nâng cao (Ảnh TL)
Theo lời truyền khẩu từ xa xưa, khoảng giữa thế kỷ 16, bốn anh em cụ Tổ, dòng Họ Tô Đình từ phía Bắc, về cư trú làm ăn tại làng Cổ Chử, nay là làng Dứa, Hồng Quang, Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Người anh cả là Tô Huệ Hưng, kết duyên với người con gái Họ Trần Đình làng Cổ Chử, là Trần Thị Từ Huệ, sinh được 3 người con trai là Tô Đình Kỷ, Tô Đình Nhiên, Tô Đình Điềm (lấy chữ Đình họ mẹ làm chữ đệm cho con) và cụ Tô Huệ Hưng trở thành Thủy tổ của chi Họ Tô Đình làng Dứa từ đó.
Trong phả tộc còn ghi tên 3 người em của cụ Tô Huệ Hưng là Tô Giác Đạo, Tô Phúc Ngộ, Tô Phúc Lai nhưng không nói rõ là đi làm ăn cư ngụ ở đâu. Nên trong Phả tộc cũng không ghi nơi đặt phần mộ và ngày kỵ của ba cụ này.
Mối quan hệ hai Họ Tô – Trần còn gắn bó cho đến các đời sau, thành một tục lệ rất hay là cho đến nay người Họ Tô vẫn gọi người Họ Trần là “cậu”.
Cháu đời thứ 3 của cụ Tô Huệ Hưng là Tô Đình Thung (con trai thứ hai của cụ Tô Đình Kỷ) là Cai đội trong Thủy quân nhà Mạc. Ông đã mời thày Tàu về tìm nơi đất đẹp để đặt mộ Tổ, có lẽ vì vậy mà chi Họ Tô Đình đã phát triển cho đến ngày nay. Ông mất ngày nào không rõ, nên con cháu lấy ngày ông đi lính 14 tháng Tư làm ngày giỗ và ngày đó có tục lệ đốt thuyền rồng (tiễn Long Chu) hiện vẫn còn duy trì. Con cháu làm một chiếc thuyền rồng to (hàng mã) thật đẹp và cử một số cháu gái thanh tân trong họ khiêng thuyền ra sông làm lễ đốt. Dân làng hàng ngàn người đến xem nên ngày 14 tháng Tư trở thành ngày hội của làng.
Họ Tô Đình từ đời thứ 5 hình thành 3 cành. Đến nay chi họ phát triển đến đời thứ 14. Cả họ có khoảng 140 hộ với khoảng 300 đinh, chiếm 2/3 số hộ của làng Dứa. Có một số hộ chuyển cư lên Thái Nguyên, Bắc Giang.
Chi họ đến đời thứ 8 vẫn đệm chữ Đình, từ đời thứ 9 đến nay bên cạnh chữ Đình còn đệm các chữ Văn, Xuân, Ngọc, Quang, Đăng.
Nghệ nghiệp chính của chi họ là làm ruộng.
Họ Tô Đình là một họ có vị thế ở làng Cổ Chử. Xem trong gia phả từ đời thứ 5 đến đời thứ 10, đời nào cũng có những người đảm đương các chức dịch trong xã: Tiên chỉ, Chánh hội, Xã trưởng, Phó lý, Trưởng bạ, Xã tuần; nhiều cụ là Thập lý hầu, có người còn đảm nhiệm công việc trong bộ máy nhà nước như cụ Tô Đình Thung, đời 3 là Cai đội; cụ Tô Đình Hùng đời 7, làm chức Bang Biện; cụ Tô Đình Đồn đời 8 làm Đội trưởng; cụ Tô Văn Thiềm đời 8 là tinh binh chánh suất Đội hàm lục phẩm, một số cụ có hàm cửu phẩm.
Vể mặt học hành đời trước có 3 cụ đỗ Tú tài, một số cụ đỗ Nhất trường, Nhị trường.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chi Họ Tô Đình có 51 người tham gia lực lượng vũ trang; có 8 người là liệt sĩ, 3 người là sĩ quan cao cấp trong quân đội, công an.
Trong chi họ có 1 con dâu và 1 cháu trai là Tiến sĩ và 24 người có bằng Thạc sĩ, Cử nhân.
Chi họ từ xa xưa đã xây dựng được từ đường bằng gạch ngói. Năm 1951 từ đường được xây dựng lại bằng gỗ lim lợp ngói. Ngày 21 tháng 4 năm 1952 trong trận chống càn từ đường đã bị đại bác của giặc Pháp phá hỏng củng thờ. Năm 1997 chi họ vận động đóng góp để xây lại củng thờ, sửa chữa 3 gian từ đường và mở rộng khuôn viên phía trước như hiện nay.
Hằng năm con cháu tập trung ở từ đường làm giỗ Thủy tổ vào ngày 13 tháng Hai và giỗ cụ Tô Đình Thung vào ngày 14 tháng Tư với tục lệ đốt thuyền rồng.
Gia phả chi họ cũng được viết từ lâu bằng chữ Hán, lưu truyền qua nhiều đời là tài sản vô giá của chi họ.
Cụ Nhất Vinh đời thứ 8 (đỗ Nhất trường) dịch gia phả từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ. Đến ngày 8 tháng Xuân năm Bình Thìn (1976) cháu đời thứ 10 là Tô Ngọc Đại, Trưởng tộc đã theo bút tích của cụ Nhất Vinh liệt kê tên húy, tên hiệu, ngày kỵ từ cụ Thủy tổ đến con cháu 3 cành.
Năm 2009 được cụ Phan Văn Tiện, cháu ngoại đời thứ 10, giỏi chữ Hán đã dịch lại cuốn Tộc phả chữ Hán và viết tiếp các đời con cháu sinh ra đến năm 2009. Cuốn gia phả mới “Tộc phả dòng Họ Tô xóm Dứa, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định” dày đến 230 trang, có nhiều ảnh mộ được in bằng giấy tốt, đóng bìa cứng rất công phu hoàn thành vào tháng 10 năm 2009.
Tộc trưởng hiện nay là cháu đời thứ 11 Tô Ngọc Mã, sinh năm 1951 là con trưởng cụ Tô Ngọc Đại.
Họ Tô Việt Nam (viết theo Tộc phả dòng Họ Tô xóm Dứa và ông Tô Ngọc Mã cung cấp).
- Chi họ Tô làng Chánh Đạo, Mỹ Thọ, Phù Mỹ, tỉnh Gia Lai
- Chi Họ Tô Khắc Quảng Long,Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
- Chi Họ Tô Hội An, Cộng Hoà, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh
- Chi Họ Tô Hiến làng Đông Thượng, Đông Yên, Quốc Oai, thành phố Hà Nội
- Chi họ Tô Duy thôn Lạc Đạo, Hồng Quang, Nam Trực, tỉnh Ninh Bình
- CHI HỌ TÔ ĐÌNH THÔN CHẤN, ĐỒNG BÀI, CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- CHI HỌ TÔ ĐĂNG – TÔ TRỌNG THÔN TRUNG THÀNH, CỘNG HOÀ, HƯNG HÀ, TỈNH HƯNG YÊN
- Chi họ Tô thôn Đại Trà, Đông Phương, Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
- Chi Họ Tô Đại Tôn, Thạch Bằng, Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh
- CHI HỌ TÔ ĐẠI BÌNH, ĐẦM HÀ, TỈNH QUẢNG NINH
- Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
- Lễ báo công truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND đồng chí Tô Quyền
- Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” và nhà thơ Lê Anh Xuân
- Thuỷ Tổ Họ Tô Việt Nam là ai?
- Đất nước và người mẹ trong thơ Tạ Hữu Yên
- ANH HÙNG “MÌN GẠT”
- VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ HIỆN NAY.
- Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?
- BÀI PHÁT BIỂU TẠI LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐÌNH THUẦN LƯƠNG CỦA NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN LAN
- LỚP TRƯỞNG TÔ HIỆP NHỚ VỀ LỚP ĐỆ NHẤT B “ĐẶC BIỆT”



