Nhạc sĩ Hoàng Việt, và nhạc phẩm “Tình ca”

 Nhạc sĩ Hoàng Việt và vợ - Lâm Thị Ngọc Hạnh      Ảnh TL

 Khi hát lên tiếng ca gởi về người yêu quê ta

Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba

Em ơi! nghe chăng lời trái tim vọng ra

Rung trong không gian mặt biển sôi ầm vang

Qua núi biếc chập chùng xa xa

Qua bóng mây che mờ quê ta

Tiếng ca đời đời chung thủy thiết tha

Em có nghe tiếng ca chứa đựng hận thù sâu xa

Đã biến tình đôi ta thành những ánh sao tỏa sáng

Vượt băng băng qua đêm tối tìm hương hoa

Bến nước Cửu Long còn đó em ơi! 

Bãi lúa nương dâu còn mãi muôn đời

Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xóa nhòa.

Khi đã nghe tiếng ca của lòng người yêu phương xa

Em hãy ngước mắt lên vui nhìn trời xanh quê ta

Chim bay giăng giăng ngoài nắng xuân đẹp thay

Tan cơn phong ba lòng đất yên rồi đây

Em hãy nở nụ cười tươi xinh

Như cánh hoa xuân chào riêng anh

Nói nhau nghìn lời qua đôi mắt xanh

Ta hát chung tiếng ca vang dội từ nghìn phương xa

Xua kẻ thù đi mau, dập tắt chiến tranh đẫm máu

Đập tan ngay bao đau khổ và chia ly

Giữ lấy đức tin bền vững em ơi

Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời

Làm một bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người.

 

Nhạc sĩ Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1928 tại Chợ Lớn. Quê cha ở thị xã Bà Rịa, quê mẹ ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Từ những năm học trung học ở Sài Gòn, lúc 16, 17 tuổi, Lê Chí Trực với bút danh Lê Trực đã viết những ca khúc như Chị cả, Biệt đô thành và được yêu thích nhất là Tiếng còi trong sương đêm với điệu tango đều dặn, buồn thương...

Năm 1947, Lê Chí Trực giã từ ánh đèn thành phố, lên rừng tham gia kháng chiến, trở thành thành viên trẻ nhất của đội ngũ văn nghệ kháng chiến của  Nam bộ. Cũng vì hành trang ôm theo lên rừng là bài hát từng phổ biến ở Sài Gòn, trong đó có Tiếng còi trong sương đêm, ông bị nghi là “phản động” nên bị bắt giam và đưa đi lao động cải tạo 3 tháng. Lãnh đạo cơ quan văn nghệ Khu 8 phải bảo lãnh ông trở về. Đây cũng là thời gian ông lấy bút danh Hoàng Việt Hận để sáng tác. Sau này ông mới bỏ chữ "Hận", thành bút danh Hoàng Việt.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, đất nước bị chia đôi bởi vĩ tuyến 17. Chàng nhạc sĩ bao năm lăn lộn ôm súng trên các chiến trường miền Tây, miền Đông (từng nổi tiếng với các ca khúc rừng rực tinh thần cách mạng, nhưng vẫn đầy lãng mạn Lên ngàn, Nhạc rừng, Lá xanh, Đánh giặc giữ làng, Mùa lúa chín… lên đường tập kết ra Bắc, tạm biệt người vợ trẻ và ba đứa con thơ, đứa lớn nhất chưa đến 5 tuổi, để trở thành sinh viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam ở tuổi 26. Trở thành sinh viên xa nhà, mối liên hệ duy nhất của Hoàng Việt và vợ con chỉ là những cánh thư. Thời ấy, đường sá cách trở, thư từ hai miền cũng đâu thể như cánh chim vượt qua sông Bến Hải (ranh giới tự nhiên của vĩ tuyến 17). 

Một tối mùa xuân năm 1957, trong căn gác nhỏ, Hoàng Việt mừng rơi nước mắt khi nhận thư vợ. Lá thư đã đi một hành trình quá dài, từ Sài Gòn theo hàng không sang tận Paris (Pháp), vòng vèo quá cảnh nhiều nước mới về tới Hà Nội, nằm trong tay anh chồng. Đọc thư, nỗi nhớ người thương dồn nén bởi xa cách bùng lên, hình thành giai điệu, Hoàng Việt lục giấy bút chép dòng cảm xúc mãnh liệt. Sáng hôm sau, chúng ta có siêu phẩm Tình ca.

Nhiều nhạc sĩ không ngại ngần bình chọn Tình ca của Hoàng Việt là tình khúc cách mạng hay nhất thế kỷ XX. Với người yêu âm nhạc bình thường, khi đoạn nhạc dạo vang lên, là dòng cảm xúc cuộn dâng, có người nổi da gà mà không lý giải được vì sao. Có lẽ Tình ca đi vào lòng nhiều thế hệ bởi hội tụ đủ các yếu tố về giai điệu, ca từ, cảm xúc; giao thoa và đẩy đưa một cách hoàn hảo giấc mơ sum họp của tình yêu đôi lứa, trong giấc mơ thống nhất nước nhà.

Khi hát lên tiếng ca gởi về người yêu quê ta

Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba

Nhạc sĩ Nguyễn Đình San từng phân tích trong một bài viết rằng, với ông, đây là bài tình ca cách mạng hay nhất. Với bài thanh nhạc này, người hát có thể bộc lộ được mọi điểm mạnh, yếu trong giọng hát với mọi kỹ thuật hát hiện đại, nên từ lâu đã trở thành tác phẩm mang tính kinh điển, học sinh phải vượt qua trong các kỳ thi tốt nghiệp môn thanh nhạc tại các nhạc viện. Trong các phòng karaoke, bạn rất dễ gặp một giọng ca nam vang lên, vì đây cũng là bài hát dễ thể hiện. Tóm lại là một bài dành cho cả đại chúng lẫn những “cao nhân” nghề hát.

Hoàng Việt chọn hình ảnh, chi tiết giản dị để bất cứ ai nhắm mắt cũng hình dung ra không gian rộng lớn của một mối tình yêu xa – nói như ngôn ngữ hiện đại ngày nay. Nhớ nhung, yêu thương, hy vọng, tác giả gửi đầy ắp niềm tin vào ngày mai, vào chiến thắng (cần nhớ ca khúc ra đời năm 1957, trước khi hai miền thống nhất tới 18 năm): 

Chim giang giăng bay, ngày nắng xuân đẹp thay.

Tan cơn phong ba, mặt đất yên rồi đây.

Em hãy nở nụ cười tươi xinh, như cánh hoa xuân chào riêng anh.

Nói nhau ngàn lời qua đôi mắt xanh.

Em ơi nghe chăng lời trái tim vọng xa, vang trong không gian, mặt biển sôi ầm vang...

Giai điệu hào hùng và tươi sáng chứa đầy niềm lạc quan, có sức mạnh lan tỏa và “vặn dây cót” tinh thần người nghe. Ngay lập tức Tình ca trở thành tác phẩm thanh nhạc, bản tình ca hay nhất thời bấy giờ. Ban đầu bài hát chỉ có lời 1, Ban biên tập sóng phát thanh đã góp ý tác giả viết lời 2, để làm mạnh thêm phần cảm xúc phía người con gái, mạnh thêm niềm tin yêu và thủy chung, niềm tin chiến thắng.  

Bài hát được thu thanh bởi giọng nam cao hàng đầu và cũng là người bạn thân của Hoàng Việt là ca sĩ Quốc Hương. Nhưng khi lên sóng trong thời điểm cả nước đang dồn sức cho công cuộc trường chinh thống nhất đất nước, ca khúc bị xét lại. Nhiều ý kiến của quan chức ngành văn hóa cho rằng, tác giả quá táo bạo khi đề cao tình yêu đôi lứa và đó là “mùi tiểu tư sản”, là thứ tình cảm ủy mị cá nhân, làm mềm yếu những ai đang chiến đấu và hy sinh cho đại cuộc. 

Sống trong cảnh kìm kẹp của ngụy quyền Sài Gòn, phải nge lén Đài Tiếng nói Việt Nam từ Hà Nội, cụ Lâm Thị Ngọc Hạnh (vợ nhạc sĩ Hoàng Việt) tâm sự: Lần đầu nghe được lời bài hát cất lên, tôi cảm nhận như bức thư tình mà người chồng gửi riêng cho mình, động viên tôi cố gắng nuôi con, chờ ngày chồng trở về. Nhất là đoạn:

“Ta hát chung tiếng ca vang dội từ nghìn phương xa

Xua kẻ thù đi mau, dập tắt chiến tranh đẫm máu

 Đập tan ngay bao đau khổ và chia ly

Giữ lấy đức tin bền vững em ơi! Giữ lấy trái tim đời sống yêu đời

Làm một bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người”.

Số phận của Tình ca cũng giống nhiều tác phẩm thơ ca nhạc họa khác từng bị gắn nhãn tiểu tư sản và thành “hàng cấm”, nhiều tác giả bị ảnh hưởng, rút vào mặc cảm, không thể sáng tác. Đó là một giai đoạn được đánh giá là thiệt thòi cho văn hóa nghệ thuật, gây tranh cãi nhiều năm về sau. Nhưng các nhà phê bình âm nhạc cách mạng nhận định rằng, lịch sử luôn có những lý lẽ của riêng nó. Trong công cuộc phục vụ đại chúng thời chiến, các trường phái sáng tác cần thiết lùi về phía sau dòng sáng tác thuần chất cách mạng, để tập trung ngợi ca cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Hoàng Việt ngậm ngùi cất Tình ca và ngăn kéo, dồn sức thai nghén các tác phẩm khác. Năm 1958 ông được cử sang Nhạc viện Sofia (Bulgari) tu nghiệp 7 năm. Ông chính là người viết nên bản giao hưởng đầu tiên của lịch sử âm nhạc nước nhà. Bản giao hưởng tính chất sử thi mang tên Quê hương là báo cáo tốt nghiệp của Hoàng Việt, gồm nhiều chương, tổng hợp nhiều bản nhạc cách mạng hàng đầu bấy giờ, được phối khí cho các dàn nhạc hàng đầu của Bulgari và Việt Nam biểu diễn, dưới sự chỉ huy của các nhạc trưởng nước ngoài. 

Bản giao hưởng Quê hương đánh dấu bước tiến của âm nhạc Việt Nam vào lĩnh vực nhạc “khó nhằn” là giao hưởng thính phòng. Giám đốc Nhạc viện Sofia đánh giá: “Bản giao hưởng của Hoàng Việt không phải là một tác phẩm tốt nghiệp mà thật sự là một tác phẩm lớn, là thành công rực rỡ của Âm nhạc Việt Nam”. 

Sau bản giao hưởng đồ sộ, Hoàng Việt tiếp tục dồn tâm sức cho bản giao hưởng thứ 2 mang tên miệt đồng bằng quê ông Cửu Long. Ông gửi thư cho lãnh đạo Hội Âm nhạc, bày tỏ khát vọng đưa âm nhạc cách mạng thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của người miền Nam. Đầu năm 1967, Hoàng Việt được sum họp với vợ con sau 13 năm xa cách. Sau đó ông xin về quê, chọn lộ trình về sông Tiền, sông Hậu để thêm thực tế phục vụ cho bản giao hưởng dự kiến gồm 3 chương, đồ sộ và mang tính sử thi tương đương bản Quê hương, nhưng thấm đẫm tinh thần miền Nam “gian lao và anh dũng”.

Sau những ngày tháng vượt đường xa, Hoàng Việt đã về đến Tiền Giang. Nhưng trong buổi sáng cuối cùng năm 1967 ( 31 tháng 12),  người nhạc sĩ vừa đặt chân lên đất mẹ thì bất ngờ trúng đạn từ máy bay Mỹ tập kích. Ông ngã xuống trên bờ kênh Ả Rặt (làng Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) ở tuổi 39 và bản giao hưởng Cửu Long 3 chương mãi mãi dang dở...

Sau sự ra đi của nhạc sĩ, cộng với sự cởi mở của thời kỳ mới, Tình ca được xem xét để trở lại sóng phát thanh. Chỉ tiếc rằng, người nhạc sĩ tài hoa không còn cơ hội nhìn đứa con tinh thần ngân vang trên mọi nẻo đường đất nước, trong trái tim của các giới, các thành phần... Chỉ có bến nước Cửu Long trong Tình ca sẽ còn dạt dào nhiều trăm năm sau nữa trong những ca từ lãng mạn tuyệt đẹp. 

                                                                             Tô Bảo Minh