
Khu lưu niệm nhà cách mạng liệt sĩ Tô Hiệu tại làng Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Văn Giang (Ảnh TL)
Đời thứ nhất: Thủy Tổ Đạo Khoan:
Ngài đậu Giám sinh Trường Quốc Tử Giám thời Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ (1620) triều hậu Lê.
Họ Tô chi cụ Đốc Nam trong gia phả không ghi rõ có tự bao giờ, chỉ biết cụ Đạo Khoan là người phát khoa đầu tiên nên thờ là Thủy Tổ. Tính từ Thủy Tổ Tô Đạo Khoan đến hậu huệ hiện nay được 17 đời, với thời gian khoảng gần 400 năm.
Đời thứ 2: Cụ Phúc Cơ
Làm việc tại Tú Lâm Cục (cơ quan lo việc xuất bản).
Đời thứ 3: Cụ Thủ Cẩn
Sinh được hai con trai: chi trưởng và chi thứ
Đời thứ 4:Cụ Phúc Thông
Đời thứ 5:Cụ Ôn Hậu, tên húy Tô Thuần; Cụ sinh năm Giáp Ngọ (1712) mất năm Bính Ngọ (1785), thọ 73 tuổi; đỗ Tam Trường thời Hậu Lê (1737). Cụ chân chất phúc hậu giỏi nghề làm thuốc, giữ chức vụ Thị hữu trung cung Thái y viện; dạy khoa Y học ở phủ Trường Khánh. Cụ có 2 con trai là Tuyết Khê (Tô Hiến) và Đãng Trai (Tô Thản).
Cụ Đãng Trai Tô Ngọc Thản đỗ Nho sinh trúng thức (tức cử nhân) khoa Quý Mão (1783). Con của cụ Đãng Trai là cụ Kim Giang (Tô Ngọc Huyền) đỗ cử nhân khoa Quý Dậu (1815). Cụ Tô Ngọc Thản là Khởi tổ chi họ Tô Ngọc của làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, Văn Giang, Hưng Yên tính từ Thủy tổ Tô Đạo Khoan đến nay có 15 đời con cháu, hình thành 4 nhánh với 11 hộ, 33 nhân khẩu. Chi trưởng là ông Tô Ngọc Kim. Trong 4 nhánh chỉ có nhánh 1 của cụ Tô Ngọc Thành con cháu định cư ở làng Xuân Cầu, các nhánh kkhác định cư ở Hà Nội, ở Hoa Kỳ, Vương quốc Bỉ.
Đời thứ sáu: Cụ Tuyết Khê (Tô Hiến); Cụ sinh năm Canh Thân (1739), mất năm Nhâm Ngọ (1762); đỗ Hương Tiến (như cử nhân); thi Hội mấy lần đều trúng Tam Trường, có bài thi Tứ Lục giỏi nhất trường thi; được bổ dụng Tri huyện Vĩnh Lại; sau được thăng chức Lang Trung Bộ Hộ. Cụ sinh được 2 con trai: con trai trưởng là cụ Phát Hiên, con trai thứ là cụ Đạm Khê. Con gái cụ có bà tên là Tô Thị Thường lấy cụ Quỳ Giang Nguyễn Gia Cát đỗ Nhị giáp tiến sỹ khoa Đinh Mùi (1786).
Đời thứ bảy: Cụ Phát Hiên, tên húy là Tô Tiêu. Cụ sinh năm Đinh Dậu (1776), mất năm Đinh Dần (1842).
Năm Nhâm Tuất (1803) cụ Quỳ Giang được vua Gia Long giao nhiệm vụ đi sứ nhà Thanh cầu phong. Cụ Phát Hiên được đi theo đoàn của anh rễ giữ chức thư ký cho phái bộ cầu phong. Cụ tính tình khoáng trực, lỗi lạc, sinh được một con trai là cụ Tô Ngọc Nữu.
Đời thứ tám: Cụ Đinh Phủ, tên húy Tô Ngọc Nữu. Cụ sinh năm Đinh Sửu (1817), mất năm Kỷ Sửu (1889).
Cụ đỗ cử nhân khoa Canh Tuất đời nhà Nguyễn (1850); năm Tân Hợi đi thi Hội đỗ Tứ Trường được bổ làm Giáo thụ phủ Trường Khánh rồi Giáo thụ phủ Lý Nhân, Tri huyện Bình Lục, Giáo thụ phủ Nghĩa Hưng, giữ quyền Đốc học Nam Định trước khi về hưu. Cụ sinh được 4 con trai và 6 con gái, trong đó có:
- Cụ Tô Mậu (1837 - 1861) sinh ra cụ Tô Xướng (1860 - 1888) đỗ cử nhân khoa Bính Tuất (1886).
- Cụ Tô Phát sinh năm Quý Mão (1842), mất năm Mậu Tý (1888), cụ sinh ra cụ Tô Y (Đinh Sửu 1877). Cụ Tô Y sinh ra Tô Tu, Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Thị Xuyến, Tô Thị Phúc. Cụ Tô Y mất năm Ất Mão (1915) .
- Cụ Tô Sính sinh năm Mậu Thân (1847), mất năm Mậu Tý (1888). Cụ sinh được 3 con trai, 3 con gái trong đó có cụ Tô Kỷ là thân sinh của ông Tô Quang Đẩu (đảng viên năm 1930, nguyên thứ trưởng Bộ nội vụ nay là Bộ thương binh xã hội).
- Cụ bà Tô Thị Bảy vợ ông Tô Nguyên, là ông bà nội của ông Lê Giản (Tô Gĩ – đảng viên năm 1929, Bộ trưởng công an đầu tiên của chính quyền cách mạng)
- Cụ bà Tô Thị Tám là vợ ông Nguyễn Đạo Khang sinh được 5 trai, 2 gái trong đó có ông Nguyễn Công Hoan (nhà văn nổi tiếng) và ông Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương- Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy Hà Nội).
Đời thứ chín: Cụ Tô Phát (1842 - 1888)
Đời thứ mười: Cụ Tô Y (1877 - 1915)
Đời thứ mười một: Cụ Tô Tu, cụ sinh năm Tân Sửu (1901) mất năm Đinh Tỵ (1977).
Cụ Tô Y mất sớm khi cụ Tô Tu mới 14 tuổi, nên cụ Tô Tu “quyền huynh thế phụ” cùng với mẹ nuôi dưỡng các em. Trước 1945 cụ làm nghề kế toán kiêm phiên dịch. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Cụ được cử làm Chủ tịch ủy ban lâm thời và Chủ tịch ủy ban kháng chiến xã Nghĩa Trụ. Từ năm 1947 - 1966 cụ là Trưởng phòng kế toán các Công ty Thương nghiệp. Năm 1966 cụ nghỉ hưu tại quê nhà. Cụ sinh được 14 người con trai và con gái trong đó có: 3 người có bằng Tiến sĩ (Tô Tưởng Vân, Tô Chính Thắng, Tô Ánh Dương), 1 người giữ hàm bộ trưởng (Tô Duy).
Đời thứ mười hai: Cụ Tô Khôi sinh năm 1923 mất năm 2012; cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên là Vụ Trưởng Bộ Công thương, 65 tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Ba.
- Con trai út của cụ Tô Tu: Tô Quyết Tiến, từ năm 2000 đến nay được dòng họ giao làm Trưởng ban đại diện, quản lý trông nom nhà thờ, phần mộ, tiến hành các hoạt động thờ phụng, tâm linh.
Tô Quyết Tiến (Đời thứ 12) và Tô Ngọc Kim (Đời thứ 13)
- HỌ TÔ THÔN NÀ KHANH, XÃ ĐỔNG XÁ, NA RÌ, TỈNH THÁI NGUYÊN
- HỌ TÔ THÔN MỸ LƯƠNG, XÃ VĂN LANG, HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
- HỌ TÔ THÔN MỸ HÒA, XÃ ĐẠI HÒA, HUYỆN ĐẠI LỘC,TỈNH QUẢNG NAM
- Họ Tô thôn Kim Sơn, xã Lê Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
- Chi Họ Tô thôn Kim Lâm, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội
- HỌ TÔ THÔN HỘI AN, XÃ PHỔ AN, THỊ XÃ ĐỨC PHỐ, TỈNH QUẢNG NGÃI
- Họ Tô thôn Hiền Lộc, xã Bình Lãnh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
- Họ Tô thôn Dương Nham, xã Phạm Thái, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
- Họ Tô thôn Đồng Mu, xã Xuân Trường, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
- HỌ TÔ THÔN ĐOAN BÁI, XÃ ĐẠI BÁI, HUYÊN GIA BÌNH, TINH BẮC NINH
- Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
- Lễ báo công truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND đồng chí Tô Quyền
- Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” và nhà thơ Lê Anh Xuân
- Thuỷ Tổ Họ Tô Việt Nam là ai?
- Đất nước và người mẹ trong thơ Tạ Hữu Yên
- ANH HÙNG “MÌN GẠT”
- VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ HIỆN NAY.
- Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?
- BÀI PHÁT BIỂU TẠI LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ ĐÌNH THUẦN LƯƠNG CỦA NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN LAN
- LỚP TRƯỞNG TÔ HIỆP NHỚ VỀ LỚP ĐỆ NHẤT B “ĐẶC BIỆT”



