Nấm mộ và cây trầm


   Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn

                   Cây trầm cháy dở thay nén nhang

                   Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm

 

                   Hùng ơi, mai gió mùa đông bắc

                   Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng

                   Những đêm hai đứa xong phiên gác

                   Bao gạo gối đầu chăn đắp chung

 

                   Nhớ khi mình ốm giữa rừng

Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi

Qủa khế rừng nấu con cá suối

Thương mình Hùng hóa trẻ đi câu

 

Chúng mình có ở cách xa nhau

Một thước đất sao Hùng không nghe mình gọi…?

Một thước đất hóa khoảng trời vời vợi

Từ nay minh thương nhớ Hùng hơn xưa

                          

Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù

Nhận cái chết cho đồng đội sống

Ngực chặn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng

Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi

 

Chết – Hy sinh cho Tổ quốc, Hùng ơi

Máu thấm đỏ, lời ca bay vào đất

Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc

Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng

 

Hùng nằm trong nôi của đất rộng vô cùng

Khoảng trời biếc hương trầm thơm hơn trước

Những đoàn quân đi đánh giặc

Có hoa rừng mang đến từ xa

 

Đất Hùng nằm bom đạn đào trơ

Ngày hoa nở, đêm ngời sao tỏ

Tấm biển gỗ trên mộ người chiến sĩ

Thành bàn tay chỉ hướng quân thù

 

Cây trầm thơm từ gốc thơm ra

Như nhắc nhở với người đang sống

Thù riêng lớn, thù chung càng lớn

Hờn căm này nhân tiếp những hờn căm

 

Thôi mình đi Hùng nhé. Hãy yên nằm

Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá

Trận đánh trường kỳ vắng Hùng tham dự

Trận đánh cuối cùng chiến thắng phải về ta

 

Anh trinh sát hy sinh trao lại tấm bản đồ

Anh xung kích hy sinh phất cao cờ chuẩn

Xin Hùng hãy trao cho mình khẩu súng

Trận đánh vẫn còn tiếp diễn, Hùng ơi…

 

Quân mình đang pháo kích nơi nơi

Hùng có thấy đất rùng rùng sấm dậy

Mặt trận chuyển vào sâu rồi đấy

Thôi mình đi, Hùng nhé, hãy yên nằm

 

Thơm rất xa theo gió thoảng hương trầm

Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ

Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị

Thân hy sinh thơm đất thơm trời

                                                  

                                                       Nguyễn Đức Mậu

 

Tôi và nhà thơ Nguyễn Đức Mậu biết nhau đã lâu nhưng thân quen, hò hẹn thì mãi đến khi cả hai cùng nghỉ hưu mới có… Vừa rồi anh lại tặng tôi cuốn “Từ trong lòng cuộc chiến” do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Văn hóa trí tuệ Việt tuyển chọn ấn hành quý 2 năm 2010, gồm 99 bài thơ anh viết trong chiến tranh. Trong đó có bài “Nấm mộ và cây trầm” mà tôi vẫn yêu thích.

Nhớ một lần ngồi uống bia hơi, anh kể, bài này được viết khi anh còn rất trẻ, mới 22 tuổi, lính chiến của Trung đoàn 165, Sư đoàn 312, Quan đoàn 1. Năm 1969, Trung đoàn anh nhận nhiệm vụ chiến đấu ở Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, nước bạn Lào. Mới thử lửa được mấy tháng, quân số Trung đoàn vơi đi khá nhiều do bị thương vong. Người chết vì sốt rét rừng, chết vì vướng bom mìn, nhiều nhất là chết vì quần nhau với giặc. Anh có người bạn thân, hy sinh trong trận đánh ở đồi Mâm Xôi, cạnh thị xã Xiêng Khoảng. Đó là vào một đêm mùa đông. Trên nghĩa trang biên giới, bọn giặc thả đèn dù, ném bom. Ánh sáng cứ lơ lửng, lúc nhập nhoạng, lúc bùng lên hoang dại. Những cây thông bị cháy đen lửa leo lét chĩa thẳng lên trời như những cây nhang lớn. Các anh tranh thủ đào huyệt và chôn những đồng đội đã hy sinh Trước khung cảnh đầy chất bi tráng đó, anh đã có được “cái tứ” để viết bài thơ “Nấm mộ và cây trầm”:

          Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn

Cây trầm cháy dở thay nén nhang

Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm…

 

Cây thông ở nghĩa trang biên giới được thể hiện bằng hình tượng cây trầm - Một loài cây quý thay cho nén nhang thắp lên mộ bạn. Bài thơ được viết trong hang đá rừng Lào, dưới ánh đèn dầu làm từ vỏ đồ hộp. Viết sau khi chôn xác bạn trở về, viết trong tâm trạng sa xót, tiếc thương:

   Hùng ơi, mai gió mùa Đông bắc

                   Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng

                   Những đêm hai đứa xong phiên gác

                   Bao gạo gối đầu chăn đắp chung

 

                   Nhớ khi mình ốm giữa rừng

Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi

Qủa khế rừng nấu con cá suối

Thương mình Hùng hóa trẻ đi câu

 

Chúng mình có ở cách xa nhau

Một thước đất sao Hùng không nghe mình gọi…?

Một thước đất hóa khoảng trời vời vợi

Từ nay mình thương nhớ Hùng hơn xưa

                           

 Do cảm xúc mạnh, tứ thơ vững vàng nên bài thơ được viết nhanh, câu nọ nối câu kia, đoạn này tiếp sang đoạn khác. Từ trường hợp hy sinh của người bạn, người đồng đội, anh có được những đoạn thơ mang tinh khái quát cao về sự hy sinh lớn lao của người chiến sĩ Việt Nam:

 

Đất Hùng nằm, bom đạn đào trơ

Ngày hoa nở, đêm ngời sao tỏ

Tấm biển gỗ trên mộ người chiến sĩ

Thành bàn tay chỉ hướng quân thù..

 

         Bài thơ “Nấm mộ và cây trầm” được in lần đầu tiên trên Tạp chí Tác phẩm mới của Hội Nhà văn; được Hội Nhà văn và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội trao giải chính thức viết về đề tài Thương binh Liệt sĩ. Quý hơn cả là 41 năm qua, bài thơ luôn được các thế hệ bạn đọc yêu quý và thuộc nằm lòng.

                                                                                             Mùa đông 2009

                                                                                            Tô Kiều Thẩm